Sức khỏe

GS.TS. Nguyễn Hữu Tú: Đào tạo Bác sĩ Nội trú là đào tạo cho cảhệ thống, cần được cả hệ thống hỗ trợ

(HNTTO) – Bác sĩ Ni trú là thương hiu đào to ca Trường Đi hc Y Hà Ni sut 50 năm qua, bi cht lượng tm hoàn thin nht trong h thng đào to bác sĩ. Đây là lc lượng quan trng đ thay đi h thng, nâng cao cht lượng KCB.

GS.TS. Nguyễn Hữu Tú hướng dẫn các BSNT can thiệp trên bệnh nhân nặng

Sau 50 năm thực hiện mô hình đào tạo Bác sĩ Nội trú (BSNT), mô hình đào tạo BSNT ở Trường Đại học Y Hà Nội đang từng bước thay đổi, để hội nhập quốc tế cũng như nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh (KCB) cho người dân một cách đồng đều. Nhưng thay đổi thế nào cho phù hợp, là nội dung cuộc trao đổi của VietTimes với GS.TS. Nguyễn Hữu Tú – Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội:

PV: Là Hiu trưởng Trường Đi hc Y Hà Ni, cũng là người trc tiếp đào to nhiu thế h BSNT, giáo sưđánh giá thế nào v vai trò ca BSNT trong nâng cao cht lượng ca ngành y tế?

GS.TS. Nguyn Hu Tú: BSNT là một bộ phận nhỏ trong hệ thống y tế, nhưng có vai trò hết sức quan trọng. Đây là nhóm bác sỹ chuyên khoa được đào tạo bài bản nhất, liên tục, sau khi tốt nghiệp 6 năm đại học, với việc kiểm soát chất lượng cao nhất, cả đầu vào và đầu ra. Trong quá trình đào tạo 3 năm, yêu cầu học tập với BSNT cũng cao nhất, từ lý thuyết đến thực hành, lăn lộn với người bệnh trong bệnh viện (BV), bám sát các hoạt động tại BV.

Có thể nói BSNT là mô hình đào tạo khắt khe nhất, bài bản và chất lượng nhất, nên BSNT của Trường Đại học Y Hà Nội đã trở thành một thương hiệu lớn trong hệ thống y tế.

BSNT có vai trò rất quan trọng trong phát triển các chuyên ngành, vì năng lực chuyên môn vững vàng và rất am hiểu hệ thống y tế; đặc biệt là cách tiếp cận, phát hiện và giải quyết các vấn đề, khả năng tổ chức, nghiên cứu khoa học đều xuất sắc…BSNT là sản phẩm tổng hợp có nhiều ưu điểm để trở thành một cán bộ y tế nổi trội trong chuyên khoa của mình.

Điều quan trọng hơn là ảnh hưởng của BSNT đến hệ thống. Khi làm việc, họ trực tiếp truyền nghề, tác động tích cực đến đồng nghiệp và đồng nghiệp có thể học hỏi được từ những thành công của BSNT. Một khoa, một BV có nhiều BSNT chắc chắn sẽ tạo nên sự khác biệt về chất lượng khám, chữa bệnh (KCB).

Một ví dụ điển hình là 18 năm trước, BSNT Lê Văn Cường, sau khi tốt nghiệp BSNT Tim mạch đã xin về BV tỉnh Thanh Hóa. Ở thời điểm này, BS. Cường là trường hợp BSNT duy nhất về công tác tại Thanh Hóa. Với kiến thức, kinh nghiệm học hỏi được và quyết tâm rất lớn, BS Cường đã cùng đồng nghiệp xây dựng một trung tâm tim mạch rất phát triển tại BVĐK tỉnh Thanh Hóa, can thiệp và điều trị được hầu hết các kỹ thuật cao nhất, rất ít bệnh nhân phải chuyển tuyến. BS trẻ tài năng này đã được bổ nhiệm Phó Giám đốc BVĐK tỉnh và hiện đang là Phó Giám đốc Sở Y tế Thanh Hóa.

BSNT có vai trò rất tích cực trong giảng dạy, đào tạo thế hệ sau. Đây là truyền thống quý báu của BNST được giữ gìn cho đến hôm nay. Ngoài việc tích cực giảng dạy cho các thế hệ sinh viên, BSNT đàn anh luôn có trách nhiệm và hỗ trợ BSNT đàn em trong quá trình học tập cũng như đã hành nghề, tạo nên sự kế tục đặc biệt trong hệ thống đào tạo y khoa của Trường Đại học Y Hà Nội.

GS.TS. Nguyễn Hữu Tú

PV: T thc tế đó, theo ông, có cn thiết phi thay đi mô hình đào to BSNT?

GS.TS. Nguyn Hu Tú: BSNT nếu về công tác tại các BV tỉnh, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng KCB và thay đổi tích cực cho y tế các địa phương, người dân sẽ được lợi, không phải lên tuyến trên.

Vì thế, mô hình đào tạo cần thay đổi để cung cấp nhiều hơn số lượng BSNT cho các BV. Khi nhu cầu KCB chất lượng cao của người dân tăng lên, số lượng BSNT cũng phải tăng. Chủ trương mở rộng đào tạo BSNT là phù hợp với thực tế cũng như quốc tế, bởi trên thế giới, đào tạo Nội trú là đào tạo chuyên khoa bắt buộc với 100% bác sĩ, kể các bác sĩ gia đình (được hiểu như bác sỹ đa khoa).

Định nghĩa về BSNT trước đây là đào tạo tinh hoa, tất cả BSNT là tinh hoa không còn phù hợp, mà nên coi là đào tạo chuyên khoa bắt buộc của các chuyên ngành.

PV: Nhưng đến nay, mô hình đào to m rng BSNT vn chưa phát trin xng tm, phi chăng còn nhng khó khăn riêng?

GS.TS. Nguyn Hu Tú: Việc mở rộng đào tạo BSNT gặp nhiều khó khăn. Trước đây, mô hình đào tạo BSNT theo hướng tinh hoa, một khóa cả trường chỉ có 15-20 người, với yêu cầu rất cao. Nhưng giờ là đào tạo chuyên khoa cho các chuyên ngành, có tới 400 BSNT một khóa, nên yêu cầu chọn lọc đầu vào sẽ khác, đương nhiên chất lượng đầu vào nói chung không thể so sánh với nhóm chỉ có 15-20 BSNT như trước đây.

Quá trình đào tạo trước đây với số lượng BSNT ít, nên các thầy cô kèm cặp hướng dẫn, cầm tay chỉ việc, quản lý sát sao; còn nay, mỗi chuyên ngành trung bình có 30-50 BSNT các khóa khác nhau, thì việc quản lý và truyền nghề không đơn giản như trước.

Một khó khăn nữa là cơ sở thực hành: Trước, một khóa mỗi chuyên ngành chỉ có 1-3 BSNT, còn nay 10-50 học viên, nên việc hướng dẫn thực hành trực tiếp trên bệnh nhân cũng khó hơn.

Ngoài ra trước đây, BSNT được nhận học bổng/lương dù thấp, nay đã không có học bổng, lại còn phải đóng học phí, nên rất khó khăn cho người học.

Mặc dù có nhiều khó khăn và thách thức mới, nhưng các BSNT vẫn là những người được đào tạo chuyên khoa tốt nhất và Trường Đại học Y Hà Nội luôn đào tạo được những BSNT trẻ rất xuất sắc.

Từ trái qua: GS.TS Nguyễn Hữu Tú – Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội; PGS.TS Phạm Thị Lan- Giảng viên cao cấp Bộ môn da liễu Trường Đại học Y Hà Nội; GS.TS. Nguyễn Duy Ánh – Giám đốc BV Phụ sản TW; PGS.TS Nguyễn Thanh Thúy – nguyên Phó trưởng Bộ môn Sinh lý bệnh Trường Đại học Y Hà Nội; PGS.TS.Tống Xuân Thắng – Phó trưởng Bộ môn Tai Mũi Họng Trường Đại học Y Hà Nội, là các BSNT tại lễ tốt nghiệp BSNT khóa 17 (1990-1993)

PV: Đ tr thành nhng BSNT xut sc, đương nhiên là s n lc rt ln ca chính các BSNT, nhưng chc chn phi có s h tr quan trng ca các thy cô trong quá trình đào to, đúng không thưa ông?

GS.TS. Nguyn Hu Tú: Đúng thế! Để đảm bảo chất lượng BSNT đúng yêu cầu khi số học viên tăng cao hơn nhiều, các giảng viên Trường Đại học Y Hà Nội phải nỗ lực rất lớn để đáp ứng yêu cầu về chất lượng, dành thời gian quản lý cũng như kèm cặp chuyên môn.

Việc tổ chức đào tạo tại các cơ sở thực hành đang quá tải, Trường phải đầu tư mở rộng thêm cơ sở, tăng cường hoạt động tại các cơ sở thực hành. Công tác tuyển sinh thi đầu vào, đánh giá quá trình học, rồi đánh giá, lượng giá đầu ra đều phải làm chặt chẽ, tuyệt đối nghiêm túc vì đảm bảo chất lượng là mục đích cuối cùng của trường.

Nhà trường đang tiến hành đổi mới chương trình đào tạo BSNT toàn diện theo chuẩn quốc tế, xây dựng chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo dựa trên chuẩn năng lực và phù hợp với yêu cầu mới, đổi mới phương pháp giảng dạy và học, đổi mới đánh giá lượng giá để tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là yêu cầu cấp thiết để đảm bảo mở rộng đào tạo BSNT thành công.

GS.TS. Nguyễn Hữu Tú (thứ 4, hàng 2) và các BSNT sau những giờ thực hành tại BV

PV: Là Hiu trưởng ngôi trường Y có b dày kinh nghim đào to BSNT, ông có kiến ngh gì đ ch trương m rng đào to BSNT được phát trin?

GS.TS. Nguyn Hu Tú: Trường Đại học Y Hà Nội là đơn vị đào tạo BSNT lâu đời nhất, nhiều nhất tại Việt Nam. Cần nói rằng, đào tạo BSNT là cho cả hệ thống, chứ không phải cho riêng Trường Đại học Y Hà Nội, nên cần được cả hệ thống hỗ trợ, nhất là về chính sách của Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục Đào tạo đến các BV thực hành.

BSNT là đối tượng đào tạo quan trọng nên cần có chính sách, quy chế phù hợp về tuyển sinh, về đánh giá người học, cũng như cần có học bổng/lương cho BSNT. Bên cạnh đó là chính sách tuyển dụng ưu tiên ở cảcác BV TW và các địa phương, để khi ra trường BSNT có nơi làm việc ngay, tránh lãng phí nguồn lực.

Về hệ thống các BV thực hành: Đào tạo BSNT chủ yếu là thực hành, vì thế việc này quyết định sự thành bại của Nội trú; các BV cần chung tay xây dựng chương trình và tham gia tích cực trong đào tạo BSNT. BSNT là nguồn nhân lực chất lượng cao của cả ngành y tế nên rất cần sự chỉ đạo của BYT, tránh cho phép đào tạo tràn lan, gây quá tải các BV thực hành, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đào tạo truyền thống của Trường Đại học Y Hà Nội.

Về phía Trường Đại học Y Hà Nội, chúng tôi sẽ không ngừng cố gắng đổi mới chương trình đào tạo BSNT phù hợp với thực tế, đề cao trách nhiệm của các thầy cô và bộ môn, tăng cường quản lý, đánh giá người học, đảm bảo chất lượng đào tạo, thương hiệu BS Nội trú Trường Đại học Y Hà Nội mà chúng ta tự hào 50 năm qua.

PV: Xin cám ơn giáo sư đã trao đi!

Thanh Hng (thc hin)

GS.TS. Nguyễn Hữu Tú giảng bài tại một hội nghị chuyên ngành Gâyn mê hồi sức

GS.Nguyn Hu Tú hc BSNT chuyên ngành Gây mê hi sc 1990-1993

Sau đó, ông hc Ni trú ti Pháp (FFI)1994-1995, 1997-1998; Chef de Clinique ti Pháp 2001-2002

Ông được phong PGS năm 2007 và GS năm 2014, là PGS và GS tr nht ngành y tế thi đim được công nhn.

GS.Nguyn Hu Tú đã giành Gii thưởng phát minh châu Á Thái Bình Dương v Gây mê hi sc năm 2009.

Ông là mt trong hai tác gi Vit Nam được mi viết Bách khoa toàn thư bnh hc, Paris, Pháp (EMC-Cardiologie, Angeíologie, ElSEVIER SAS 2005)

GS.Nguyn Hu Tú  Phó Hiu trưởng Trường Đi hc Y Hà Ni 2009-2021và tr thành Hiu trưởng Trường Đi hc Y Hà Ni t 2021.

Thanh Hng

https://viettimes.vn/gsts-nguyen-huu-tu-dao-tao-bac-si-noi-tru-la-dao-tao-cho-ca-he-thong-can-duoc-ca-he-thong-ho-tro-post173443.html?utm_source=web_vt&utm_medium=home_noibat_vt&utm_campaign=noibat#173443|home-highlight|2

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button