Nghiên cứu trao đổi

TS. Hồ Minh Sơn: Phân tích tội Trốn thuế, so sánh quy định về kế toán – Nhà hàng không nhận chuyển khoản, có thể vi phạm hành chính?

(HNTTO) – Có thể thấy, công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống chính trị, phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế, khó khăn khác trong xã hội thông qua việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho họ, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.

Cụ thể, vào sáng ngày 28/06/2025, tại số 414, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp.HCM – Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) tổ chức buổi tham vấn pháp lý bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến cho các doanh nghiệp hội viên Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam (VFAEA); Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (VICRAFTS); Cậu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE); Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC)…

Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), hoạt động TGPL có mối quan hệ mật thiết. BTC mong muốn thông qua hoạt động TGPL, bằng các hình thức như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL, v.v… người thực hiện TGPL phổ biến, giáo dục pháp luật cho người được TGPL, giúp họ nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật để xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật và biết vận dụng pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân và gia đình khi bị xâm phạm. Điểm nổi bật của PBGDPL thông qua hoạt động TGPL là tập trung vào những lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp đến những vướng mắc pháp luật hoặc những vụ việc cụ thể của người yêu cầu TGPL nên có mức độ ảnh hưởng sâu sắc tới bản thân người được TGPL, đồng thời có sức lan tỏa tới những người xung quanh.

Trong quá trình tư vấn, các luật gia, luật sư, các tư vấn viên pháp luật. của Trung tâm trong việc TGPL phổ biến cho người dân, doanh nghiệp các văn bản pháp luật liên quan đến vụ, việc; giải đáp những vướng mắc người dân gặp phải; đưa ra lời khuyên, giải pháp, phương án để người dân lựa chọn cách giải quyết vụ việc. Hoạt động tư vấn do đó đã giúp cho người dân nắm vững các quy định của pháp luật, từ đó biết vận dụng pháp luật phù hợp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân và gia đình, hình thành lòng tin vào pháp luật và sự công bằng trong xã hội. Đẩy mạnh hoạt động này, hiện nay Viện IMRIC; Viện IRLIE; TC DN&TTVN đã kỳ vọng Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) làm đa dạng các cách thức tiếp nhận và thực hiện tư vấn pháp luật cho người dân, doanh nghiệp cụ thể trực tiếp tại cơ sở, trực tiếp tại trụ sở Trung tâm, truyền tải trên các trang mạng xã hội, trang tin điện tử trực thuộc, qua đường dây nóng và qua email.

Thông qua các buổi tuyên truyền pháp luật và TGPL hứa hẹn sẽ giúp cho người dân, doanh nghiệpnâng cao hiểu biết pháp luật, từ đó có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mình; góp phần thực hiện tốt các chính sách, nhất là chính sách TGPL cho người dân và doanh nghiệp. Dưới đây là hai tình huống mà TS. Hồ Minh Sơn phân tích cụ thể:

Tình huống thứ nhất: Yếu tố pháp lý liên quan tội Trốn thuế, so sánh quy định về kế toán khác nhau thế nào?

Thành viên Câu lạc Bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) nêu câu hỏi: Tại sao có những vụ việc doanh nghiệp bỏ ngoài sổ sách, che giấu doanh thu rõ ràng để không phải nộp thuế, nhưng lại không bị xử lý về tội Trốn thuế, mà lại bị khép vào tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng?

TS. Hồ Minh Sơn nêu phân biệt rõ 2 tội danh này về bản chất và hình phạt: TộiTrốn thuế (Tại Điều 200) và tội Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Tại Điều 221) đều là những tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên, cùng nằm trong một chương và đều liên quan đến hoạt động tài chính – kế toán, nhưng đây là hai tội danh hoàn toàn độc lập, với chủ thể, hành vi và căn cứ định tội khác nhau.

Tội Trốn thuế: Chủ thể là bất kỳ cá nhân nào, không phân biệt chức vụ, quyền hạn. Tội Vi phạm quy định về kế toán: Chỉ áp dụng với người có chức vụ, quyền hạn – tức là những người được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành công vụ hoặc nghiệp vụ kế toán, có thể hưởng lương hoặc không, được bổ nhiệm, bầu cử hay ký hợp đồng lao động.

Phân biệt sự khác nhau về hành vi cấu thành tội phạm

Tội Trốn thuế: Bao gồm 9 nhóm hành vi, tập trung vào các hành động che giấu, gian lận để không thực hiện nghĩa vụ thuế như: Không nộp hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ khai thuế; Không ghi chép các khoản thu vào sổ sách kế toán; Không xuất hóa đơn hoặc ghi sai giá trị giao dịch; Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp nhằm làm giảm số thuế phải nộp; Khai sai về hàng hóa xuất nhập khẩu, sử dụng sai mục đích hàng hóa được miễn/không chịu thuế…Mục đích chung của các hành vi này là để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, và số tiền thuế bị trốn chính là căn cứ quan trọng để định tội và định khung hình phạt.

Tội Vi phạm quy định về kế toán: Có phạm vi hẹp hơn, chỉ gồm 5 nhóm hành vi chính, chủ yếu liên quan đến sai phạm trong quản lý sổ sách, tài liệu kế toán như: Giả mạo, tẩy xóa, khai man tài liệu kế toán; Dụ dỗ hoặc ép buộc người khác cung cấp số liệu sai sự thật; Để ngoài sổ kế toán các tài sản có liên quan; Cố tình hủy, làm hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ; Lập 2 hệ thống sổ sách để giấu tài sản, nguồn vốn của đơn vị.

Sự khác biệt: Yếu tố thiệt hại (ví dụ như thiệt hại về tài sản, hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp hoặc Nhà nước) mới là căn cứ định tội, chứ không phải số tiền thuế bị thất thoát như trong tội Trốn thuế.

Căn cứ theo Điều 9 Bộ luật Hình sự: Tội Trốn thuế là tội nghiêm trọng, có mức hình phạt cao nhất lên đến 7 năm tù (khoản 3, Điều 200). Căn cứ vào khoản 3, Điều 221Tội, vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng lại được xếp vào nhóm tội đặc biệt nghiêm trọng, với mức hình phạt lên tới 20 năm tù.

Điều này, có thể đến từ chứng cứ và mục đích hành vi. Trong một số trường hợp, hành vi bỏ ngoài sổ sách hoặc lập 2 hệ thống sổ không nhằm trốn thuế, mà vì những mục đích khác như biển thủ tài sản, trốn trách nhiệm quản lý hoặc gây khó khăn trong kiểm toán.

Nếu không chứng minh được động cơ trốn thuế, cơ quan điều tra có thể chỉ khép vào tội vi phạm quy định về kế toán nếu hành vi gây hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù, với 2 tội danh này có thể xuất hiện trong cùng 1 vụ án, nhưng chúng không thể đánh đồng. Việc xác định tội danh phụ thuộc vào bản chất hành vi, mục đích thực hiện, chủ thể phạm tội và hậu quả gây ra.

TS. Hồ Minh Sơn khuyến nghị cho kế toán viên và doanh nghiệp: Cần phân biệt rõ ranh giới giữa các hành vi vi phạm để tránh rủi ro pháp lý, đồng thời nâng cao ý thức tuân thủpháp luậttrong cả hoạt động thuế và kế toán.

Tình huống thứ hai: Quán ăn không nhận chuyển khoản, là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính?

Thành viên Câu lạc bộ Doanh nghiệp IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) nêu câu hỏi: Việc các quán ăn từ chối nhận chuyển khoản có vi phạm pháp luật không? Pháp luật hiện hành có quy định gì về quyền thanh toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản, hoặc quyền từ chối các hình thức thanh toán cụ thể hay không?

Qua theo dõi các cơ quan báo chí, có một số quán ăn treo biển “không nhận chuyển khoản”, thậm chí có nơi chỉ ghi chú rất nhỏ, khuất tầm nhìn hoặc hoàn toàn không thông báo. Chỉ đến lúc thanh toán, khách mới tá hỏa vì không mang theo tiền mặt, trong khi chủ quán kiên quyết từ chối nhận chuyển khoản. Nhiều khách hàng cho rằng họ chuyển khoản hay tiền mặt đều được, quán không được phép từ chối.

Căn cứ theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, tiền giấy và tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp và bắt buộc chấp nhận. Luật này nghiêm cấm mọi hành vi từ chối nhận đồng tiền Việt Nam trong các giao dịch hợp pháp.

Qua tham chiếu Nghị định 52/2024 thay thế Nghị định 101/2012 cùng các thông tư hướng dẫn liên quan đã định nghĩa và quy định chi tiết về các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) bao gồm chuyển tiền, thanh toán bằng thẻ ngân hàng, ví điện tử, và mã QR…Các phương tiện này được pháp luật công nhận là hợp pháp, là một phần quan trọng của nền kinh tế và được Nhà nước khuyến khích phát triển.

Hiện nay, không có bất kỳ quy định pháp luật nào bắt buộc một hộ kinh doanh cá thể hoặc doanh nghiệp nói chung (trừ một số lĩnh vực đặc thù như giao dịch chứng khoán, giao dịch có giá trị lớn cần khấu trừ thuế GTGT) phải trang bị và chấp nhận các phương thức TTKDTM. Vì vậy, quyền lựa chọn có cung cấp các phương thức thanh toán này hay không về cơ bản vẫn thuộc về đơn vị kinh doanh.

Có thể thấy, pháp luật bắt buộc chấp nhận phương thức thanh toán truyền thống (tiền mặt) nhưng chỉ khuyến khích và tạo điều kiện cho các phương thức hiện đại (thanh toán điện tử). Sự khác biệt nền tảng này chính là nguồn gốc của xung đột khi các cơ sở kinh doanh khai thác lỗ hổng về tính không bắt buộc của thanh toán điện tử để phục vụ mục đích riêng, gây ra xích mích với những người tiêu dùng đã hưởng ứng chủ trương của nhà nước.

Từ đó, tạo ra một nghịch lý giữa chính sách và thực tiễn: Chính sách vĩ mô của chính phủ hướng tới một nền kinh tế không tiền mặt để tăng cường minh bạch, trong khi thực tế vi mô cho thấy một bộ phận doanh nghiệp lại quay về với tiền mặt để che giấu doanh thu.

Trong giao dịch giữa khách hàng và quán ăn, về bản chất pháp lý, là một “hợp đồng dịch vụ” được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Trên nguyên tắc cơ bản, các bên có quyền tự do thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, bao gồm cả phương thức thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận này không phải là tuyệt đối mà bị giới hạn bởi các quy định pháp luật có liên quan, đặc biệt là pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cùng với đó, chốt để xác định tính hợp pháp trong hành vi của quán ăn không nằm ở việc họ có quyền từ chối chuyển khoản hay không, mà nằm ở việc họ thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin như thế nào.

Căn cứ Điều 21 và Điều 37, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 đã đặt ra những yêu cầu rất rõ ràng về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong việc cung cấp thông tin. Cụ thể, yêu cầu bên bán phải cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả “phương thức thanh toán” cho người tiêu dùng trước khi giao dịch được thực hiện. Thời điểm “trước khi giao dịch” trong bối cảnh nhà hàng chính là trước khi khách hàng gọi món (thời điểm giao kết hợp đồng dịch vụ).

Do đó, nếu một quán ăn không có bất kỳ hình thức thông báo nào (biển hiệu rõ ràng tại nơi dễ thấy, ghi chú trên thực đơn, hoặc thông báo bằng lời của nhân viên trước khi khách gọi món) về việc họ chỉ chấp nhận tiền mặt, và chỉ đưa ra yêu cầu này vào lúc thanh toán, họ đã vi phạm nghiêm trọng quyền được thông tin của người tiêu dùng.

Trường hợp 1: Quán không thông báo trước chính sách thanh toán. Lịch sự yêu cầu gặp người quản lý hoặc chủ quán để trao đổi. Giải thích rằng mình không được thông báo trước và đề nghị chủ quán cung cấp một tài khoản cá nhân (của họ hoặc người thân) để nhận tiền; đề nghị được để lại thông tin cá nhân và quay lại thanh toán sau khi đi rút tiền hoặc tìm kiếm một giải pháp trung gian khác mà hai bên cùng chấp nhận. Theo đó, nếu việc thương lượng không thành công, hãy kín đáo sử dụng điện thoại để ghi lại cuộc đối thoại, chụp ảnh không gian quán để chứng minh không có biển báo và giữ lại hóa đơn tạm tính. Sau đó, có thể dùng những bằng chứng này tiến hành khiếu nại tới các cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Trường hợp 2: Quán đã treo biển “chỉ nhận tiền mặt” rõ ràng. Trong trường hợp này, quán ăn đã thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp thông tin của mình, người tiêu dùng có nghĩa vụ tuân thủ điều khoản đã được thông báo.

TS. Hồ Minh Sơn khuyến nghị người tiêu dùng nên hình thành thói quen chủ động quan sát các thông báo tại cửa hàng trước khi quyết định sử dụng dịch vụ để tránh rơi vào các tình huống khó xử không đáng có. Trong tình huống này, từ chối đi rút tiền có thể bị coi là vi phạm nghĩa vụ thanh toán…

CTV TVPL Bùi Văn Hải (Trung tâm TTLCC) – CTV TVPL Trần Ngọc Danh (Trung tâm TVPLMS)

Bài viết liên quan

Back to top button