Bất động sản

Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn: Tình huống pháp lý khi mua hợp đồng đặt cọc nhà đất tại tiệm photocopy – Phụ nữ đang mang thai có được ly hôn không?

(HNTTO) – Sáng ngày 17/05/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp.HCM, Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) và Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (TC DN&TTVN) chủ trì, Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) mong muốn sự nhận thức của cán bộ, nhân dân trong việc thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật ứng dụng trong cuộc sống

Với sự đổi mới, sáng tạo về hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL), đảm bảo thực chất, hiệu quả. Thông qua hình thức như tổ chức Hội nghị tuyên truyền, PBGDPL; có thể thấy đây như một sinh hoạt về tìm hiểu pháp luật…đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tuyên truyền, PBGDPL (qua cổng trang thông tin điện tử; các luật gia, luật sư và tư vấn viên pháp luật lấy thực tiễn diễn ra công tác xét xử, trợ giúp pháp lý; công tác hòa giải ở cơ sở…Tin rằng, công dân muốn tìm hiểu, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, hình thành nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của công dân.

Trong tình hình khoa học công nghệ phát triển như vũ bão gần đây, tuyên truyền phổ biến GDPL nếu có thể thực hiện qua các hình thức trực tuyến thì ngày càng tiếp cận được với đông đảo đối tượng, nhất là các đối tượng trẻ và trung tuổi. Hiện nay, không chỉ ở đô thị mà ngay cả ở nông thôn, khu vực miền núi thường xuyên tham gia bằng hình thức trực tuyến để tìm kiếm thông tin, từ đó sự triển khai rộng rãi việc PBGDPL ngày càng trở nên một kênh hữu hiệu để đưa thông tin pháp luật đến với cộng đồng…

Tại đây, các luật gia, luật sư và các tư vấn viên pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) đã giải đáp một cách cụ thể. Xin trích dẫn hai tình huống sau:

Tình huống thứ nhất: Có nên mua hợp đồng đặt cọc nhà đất tại tiệm photocopy hay không?

Độc giả tại quận 7 (Tp.HCM) nêu câu hỏi: Không biết phải theo mẫu nào mới chuẩn và tôi cần lưu ý gì về nội dung hợp đồng cọc trước khi ký hay không, có nên ra văn phòng công chứng?

Bộ luật Dân sự (BLDS) không đặt ra quy định bắt buộc về nội dung thỏa thuận đặt cọc và không cần phải tuân theo một mẫu nào.

Tại khoản 1 Điều 328 của BLDS, đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

Bên cạnh quy định trên, BLDS không đặt ra quy định bắt buộc về nội dung cụ thể của thỏa thuận đặt cọc, do đó, thỏa thuận đặt cọc không cần phải tuân theo một mẫu nào mà có thể tùy biến sao cho phù hợp với giao dịch dân sự giữa các bên.

Thế nhưng, để có được một hợp đồng đặt cọc đúng quy định của pháp luật, quý độc giả nên lưu ý một số tình huống sau:

Một, thỏa thuận đặt cọc phải xác định được mục đích đặt cọc nhằm bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng, tức các bên cần phải chỉ ra rõ đây là hợp đồng đặt cọc, và được đặt ra nhằm bảo đảm giao kết cho hợp đồng nào hoặc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nào. Đây cũng là một bước cần thiết để phòng ngừa tranh chấp phát sinh do các bên không xác định được đúng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Hai, trong trường hợp tài sản đặt cọc là một khoản tiền, cần phải xác định rõ đây là tiền đặt cọc, vì theo quy định của Điều 37 của Nghị định 21/2021, thì trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước.

Ba, theo quy định của pháp luật hiện hành thì hợp đồng đặt cọc không bắt buộc phải công chứng, việc công chứng là do các bên tự thỏa thuận dựa trên nhu cầu.

Tình huống thứ hai: Phụ nữ đang mang thai có được ly hôn không?

Luật Hôn nhân và gia đình có quy định cụ thể về điều kiện ly hôn trên tinh thần tôn trọng sự thỏa thuận của hai bên và bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

Theo tìm hiểu của Viện IMRIC; Viện IRLIE và TC DN&TTVN từ số liệu trong cuộc Điều tra giữa kỳ dân số và nhà ở năm 2024, được Cục Thống kê công bố đầu năm 2025, Việt Nam hiện có 2,9% dân số ở thành thị đã ly hôn, phổ biến nhất trong nhóm 40-49 tuổi. Trong đó, cả nước có khoảng gần 2 triệu 226 nghìn người ly hôn hoặc ly thân, trong đó hơn 963 nghìn nam và gần 1 triệu 263 nghìn nữ. Dân số thành thị có tỉ lệ ly hôn cao hơn nông thôn.

Tại vùng Đông Nam Bộ, nơi có tỉ lệ ly hôn hoặc ly thân cao nhất cao nhất với gần 560 nghìn người. Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long với hơn 522 nghìn người. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực phápluật của Tòa án.

Tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Để bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình quy định chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Tạikhoản 4 và 5, Điều 2 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao nhấn mạnh: Vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt có thai, sinh con với ai. Vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, chồng cũng không có quyền yêu cầu ly hôn (không phân biệt con đẻ, con nuôi). Tuy nhiên, nếu vợ là người yêu cầu xin ly hôn thì pháp luật không hạn chế quyền này của người vợ cho dù đang mang thai hay đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

Cụ thể: Để được Tòa án chấp thuận cho ly hôn, trường hợp thuận tình ly hôn phải đáp ứng hai điều kiện: Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn; Hai bên đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con.

Ngoài ra, trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên (đơn phương ly hôn), Tòa án chỉ ra phán quyết chấp thuận yêu cầu ly hôn khi đáp ứng các điều kiện sau: Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình; Khi một người vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài; Vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích; Khi một người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do người còn lại gây nên.

Phó viện trưởng Viện IRLIE, ThS. Phạm Trắc Long – Giám đốc Trung tâm TTTVPLMS

Bài viết liên quan

Back to top button