Ông Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện IMRIC: Cần tăng cường đồng bộ trong việc giám sát kinh doanh TMĐT
(HNTTO) – Việt Nam đang từng bước trở thành một trong những thị trường thương mại điện tử (TMĐT) tiềm năng của khu vực và thế giới. Qua đó, để đảm bảo việc thu thuế đúng và chống thất thu ngân sách nhà nuớc, các cơ quan nhà nước đang từng bước xây dựng khung pháp lý nhằm quản lý các hoạt động thương mại điện tử một cách hiệu quả nhất.
Hiện nay, kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) là xu thế tất yếu và ngày càng phát triển mạnh trong nền kinh tế số. Điều này có thể chứng minh qua số thu của cơ quan quản lý thuế trong thời gian qua.
Điển hình, Tổng cục Thuế vừa thông tin, có khoảng 14 tập đoàn, công ty công nghệ lớn trên thế giới và 8 trang điện tử hoạt động TMĐT xuyên biên giới có thu nhập tại Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ thuế. Giai đoạn 2018 – 9/2021, số thu thuế từ các tổ chức Việt Nam ký hợp đồng quảng cáo trực tuyến với tổ chức nước ngoài không thành lập pháp nhân tại Việt Nam (Google, Youtube, Facebook…) khoảng gần 4.100 tỷ đồng. Điển hình, có một cá nhân nộp thuế tiêu biểu (28 tuổi, có hộ khẩu tại quận Cầu Giấy, Hà Nội) – người đã sáng tác ra nhiều phần mềm được các ứng dụng Google Play và App Store đăng tải và trả tiền có tổng thu nhập lên tới 330 tỷ đồng. Số thuế mà cá nhân này đã nộp là 23,4 tỷ đồng.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát từ năm 2020, phương thức kinh doanh đã thay đổi nhanh và mạnh từ truyền thống sang TMĐT. Từ đó, thói quen tiêu dùng của người dân bắt đầu thay đổi với rất nhiều giao dịch, hàng hóa, dịch vụ được thực hiện thông qua hình thức TMĐT. Do đó, tiềm năng tăng thu ngân sách nhà nước trong lĩnh vực TMĐT của Việt Nam còn rất lớn.
Nói về điều này, Bà Nguyễn Thị Lan Anh – Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân (Tổng cục Thuế) cho rằng, khó khăn lớn nhất trong công tác quản lý thuế TMĐT hiện nay là quản lý đầy đủ các nguồn thu, đối tượng nộp thuế. Trong điều kiện nền kinh số, các tổ chức, cá nhân có thể tiến hành hoạt động kinh doanh xuyên biên giới mà không thuộc đối tượng đánh thuế của bất kỳ quốc gia nào theo nguyên tắc quản lý thuế truyền thống. Các quốc gia đều căn cứ trên sự hiện diện vật chất của người nộp thuế, trong khi doanh nghiệp, cá nhân có thể phân bổ thu nhập về địa điểm có lợi nhất về thuế theo quy định của từng nước.
Bà Nguyễn Thị Lan Anh – Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân (Tổng cục Thuế), nhấn mạnh: “Vì khó xác định nguồn thu, đối tượng nộp thuế, nên cơ quan Thuế cũng rất khó khăn trong việc xác định căn cứ tính thuế. Bởi trên môi trường số, các hoạt động kinh doanh có thể thực hiện thông qua website hiện diện ở một khu vực thị trường nào đó mà không cần sự hiện diện vật chất của người nộp thuế tại đó. Hay nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của luật thuế đang căn cứ vào “sự hiện diện vật chất” của tổ chức kinh doanh – nguyên tắc đánh thuế hiện hành. Ví dụ, hoạt động này là quảng cáo trực tuyến và các hoạt động tương tác thông qua nền tảng các mạng xã hội”.
Tương tự, đại diện Tổng cục Thuế cho biết, việc kiểm soát dòng tiền cũng không dễ dàng. Thực tế hiện nay cho thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế số, những phương thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng rất đa dạng như: thanh toán qua ngân hàng, thanh toán điện tử, thanh toán ngang hàng (P2P), tiền điện tử…
Tại Việt Nam, với việc kiểm soát giao dịch kinh doanh TMĐT trong nước khó khăn hơn khi mà hệ thống thanh toán theo hình thức COD (trả tiền mặt khi giao hàng) được áp dụng phổ biến hơn các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Qua đó, một khó khăn cho cơ quan thuế khi quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT.
Theo Luật gia Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) chia sẻ Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định người nộp thuế phải thực hiện đăng ký thuế và được cơ quan thuế cấp mã số thuế trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc có phát sinh nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam khi hoạt động kinh doanh TMĐT có nghĩa vụ trực tiếp hoặc ủy quyền thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế tại Việt Nam.
Có thể thấy, công tác chống thất thu ngân sách nhà nước từ nguồn thu thuế hiện đã được đẩy mạnh thông qua việc cơ quan Thuế các cấp chủ động phối hợp với cơ quan chức năng trên địa bàn, bao gồm cả Công an xã, phường, thị trấn, các ngân hàng thương mại, các công ty viễn thông, công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền dẫn, cung cấp hạ tầng mạng…trên địa bàn để cập nhật đầy đủ các thông tin của tổ chức, cá nhân hoạt động TMĐT. Trong đó, các tổ chức, cá nhân có hành vi kinh doanh trên mạng mà không khai báo với cơ quan Thuế hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cũng chịu sự giám sát chặt chẽ và truy thu thuế của cơ quan Thuế.
Chia sẻ thêm về điều này, Luật gia Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) cho biết Luật Quản lý thuế cũng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng và phát triển hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia, các tiện ích tích hợp thanh toán điện tử để sử dụng phổ biến cho các mô hình TMĐT; thiết lập cơ chế quản lý, giám sát các giao dịch thanh toán hỗ trợ công tác quản lý thuế đối với hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong TMĐT. Cùng với đó, các ngân hàng thương mại được yêu cầu khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài hoạt động kinh doanh TMĐT có phát sinh thu nhập từ Việt Nam.
Song song đó, Bộ Tài chính đã phê duyệt và ban hành đề án “Quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT tại Việt Nam”. Do đó, đối với lộ trình ngắn hạn từ nay đến hết năm 2023, ngành Thuế sẽ tập trung các giải pháp tăng cường công tác quản lý thông qua việc tăng cường một số giải pháp quan trọng, gồm: tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế; hiện đại hoá công tác quản lý thuế; xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý rủi ro; phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức, hiệp hội có liên quan để trao đổi kết nối thông tin…; đồng thời thanh tra, kiểm tra, đối chiếu thông tin đối với hoạt động TMĐT. Đối với lộ trình dài hạn, đến hết năm 2025, ngành Thuế tăng cường một số giải pháp quan trọng như: nghiên cứu xây dựng chính sách thuế đối với dịch vụ số xuyên biên giới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thuế, pháp luật chuyên ngành liên quan để đáp ứng quản lý đối với TMĐT nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Mặt khác, Tổng cục Thuế đã đưa Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài vào hoạt động. Vì vậy, để tạo điều kiện tốt nhất để nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thực hiện thuận lợi chính sách pháp luật thuế. Đây không chỉ là địa chỉ để nhà cung cấp nước ngoài thực hiện việc đăng ký, kê khai và nộp thuế mà còn là nơi nhà cung cấp nước ngoài có thể tra cứu thông tin, tìm hiểu về hệ thống chính sách pháp luật thuế và các chính sách pháp luật liên quan về lĩnh vực TMĐT tại Việt Nam.
Dịp này, Luật gia Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC): Đối với việc quản lý thuế cũng như chống thất thu thuế trong lĩnh vực TMĐT, ngoài ngành Thuế giám sát, phát hiện và thực hiện việc thu thuế một cách hiệu quả đối với tất cả đối tượng nộp thuế thì sự tham gia và phối hợp từ các cơ quan Nhà nước khác, trong đó có các ngân hàng rất thiết thực. Ngoài việc yêu cầu ngân hàng thực hiện việc khấu trừ, trích nộp, Bộ Tài chính cũng nên tìm cách phối hợp với các cơ quan Nhà nước khác (như Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng….) đưa ra các quy định buộc các đối tượng nộp thuế có trách nhiệm mở tài khoản và ủy quyền cho ngân hàng tự động khấu trừ vào số dư tài khoản của khách hàng để thực hiện nghĩa vụ thuế. Sự ủy quyền như vậy thể hiện được tính tự nguyện và bình đẳng trong quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng thương mại chỉ là đơn vị phối hợp. Khi có sự ủy quyền từ khách hàng, thì ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện sự ủy quyền từ khách hàng. Có thể khẳng định, ngân hàng thương mại cũng là một đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước và cơ quan có chức trách khác. Vìlẽ đóm khi có lệnh, yêu cầu từ phía cơ quan quản lý thì ngân hàng thương mại có nghĩa vụ phối hợp. Điển hình, khi có cá nhân nào đó có tài khoản bị cơ quan Thuế xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế và áp dụng biện pháp cưỡng chế thì ngân hàng thương mại có nghĩa vụ phối hợp trong việc phong tỏa tài khoản, khấu trừ tài khoản…
(Bài được xuất bản trên Tc in Thương trường và Doanh nghiệp số T5/2022)
Văn Hải