Nghiên cứu trao đổi

TS. Hồ Minh Sơn: Pháp lý về trường hợp được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thânvà thẩm quyền Viện kiểm sát Nhân dân khu vực trong thực hành quyền công tố?

(HNTTO) – Trong quá trình hoạt động, ngoài công tác chuyên môn, Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) phối hợp Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam luôn xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập thực hiện, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục phát luật, phát huy vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Qua đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) ngày càng đi vào chiều sâu, trọng tâm, thống nhất, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 

Cụ thể, vào sáng ngày 01/08/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Viện IMRIC; Viện IRLIE và TC DN&TTVN giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) tổ chức buổi PBGDPL cho độc giả, các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) và Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) bằng hình thức trực tuyến và trực tiếp…

Với đội ngũ luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật là lực lượng nòng cốt đi đầu, đưa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp Nhân dân, nên đội ngũ này thường xuyên được rà soát, củng cố, kiện toàn và hoạt động phát huy hiệu quả. Theo đó, các luật gia, luật sư, các báo cáo viên pháp luật công tác ở nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, có trình độ từ cử nhân trở lên, nhiều người trong số đó là thạc sỹ, tiến sỹ, chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực pháp luật; báo cáo viên pháp luật thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng phổ biến pháp luật, kỹ năng biên soạn tài liệu, kỹ năng nói chuyện trước công chúng…nhờ đó hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện bài bản, khoa học, hiệu quả hơn.

Đồng thời, việc xây dựng, nhân rộng các mô hình điểm, có hiệu quả về PBGDPL được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm nghiên cứu thực hiện, lựa chọn những cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả trong công tác PBGDPL để thực hiện nhân rộng thực hiện, tổ chức biên tập và đăng tải chương trình sách nói pháp luật trên các trang mạng xã hội, trang tin điện tử trực thuộc như: www.bestlife.net.vnwww.huongnghiepthitruong.vnwww.chinhsachphapluat.vnwww.thamvanphapluat.vnwww.tuvanphapluatvietnam.vnwww.doanhnghiepnongnghiep.vnwww.nghiencuupldautu.vnwww.phattrienspcongnghe.vn và trên hai đặc san, Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (in), góp phần tuyên truyền đến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có các Trường đặc biệt dành cho những người yếu thế;…

Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được các cơ quan, đơn vị, địa phương quan tâm, tập trung đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công nghệ thông tin vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình mới. Cạnh đó, góp phần triển khai nhanh chóng, chính xác, kịp thời các chủ trương, chính sách hỗ trợ của Đảng và pháp luật Nhà nước đến toàn thể Nhân dân và doanh nghiệp.

Xin trích lược hai tình huống được TS. Hồ Minh Sơn chia sẻ hai thông tin như sau:

Thứ nhất: Trường hợp nào được chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân?

Thành viên CLB Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật nêu câu hỏi: Yếu tố nào để được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình sang tù chung thân?

Qua tham chiếu dự thảo Thông tư liên tịch về chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân và xem xét bản án tử hình trước khi thi hành, cơ quan soạn thảo vừa đề xuất các trường hợp chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Tại Điều 248 và Điều 251 của Bộ luật Hình sự – Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh, bổ sung không thi hành án tử hình đối với trường hợp “người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối”, đặc biệt việc tách khung hình phạt “20 năm, chung thân hoặc tử hình” thành 2 khung hình phạt “20 năm hoặc chung thân” và “chung thân hoặc tử hình”. Điều này, dẫn tới nhiều đối tượng được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Qua đó, nhằm rà soát các đối tượng thuộc diện được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân bảo đảm công khai, minh bạch, thống nhất cần phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân. Cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành đã giao Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết nội dung này.

Nhằm kịp thời hướng dẫn thi hành các quy định trên, các cơ quan liên quan đã đề xuất việc xây dựng Thông tư liên tịch theo trình tự, thủ tục rút gọn. Theo đó, dự thảo Thông tư liên tịch quy định rõ các trường hợp chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân có 04 trường hợp cụ thể như sau:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội đã bị kết án tử hình thuộc trường hợp, gồm: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối.

Người phạm tội đã bị kết án tử hình trước ngày 1/7/2025 về một trong các tội: Tại Điều 109 tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”; Điều 194 tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”; Điều 250 tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; Điều 353 tội “Tham ô tài sản”; Điều 354 tội “Nhận hối lộ”…

Kế đến, người phạm tội đã bị kết án tử hình trước ngày 1/7/2025: Điều 248 tội “Sản xuất trái phép chất ma túy” và Điều 521 tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thuộc trường hợp:

Khi bị kết án tử hình về tội “Sản xuất trái phép chất ma túy” (Điều 248) Tòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án như sau: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 5 kilôgam đến dưới 30 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng100 gam đến dưới 3 kilôgam…

Khi bị kết án tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (Điều 521) Tòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án như sau: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 5 kilôgam đến dưới 30 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam đến dưới 3 kilôgam…

Ngoài ra, khi bị kết án tử hìnhTòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án với mức thấp nhất theo quy định mà người phạm tội không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 2 tình tiết tăng nặng trở lên.

Trong trường hợp có 2 tình tiết tăng nặng thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng từ 4 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Không chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân với người có 3 tình tiết tăng nặng trở lên.

Cuối cùng, người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước quyết định ân giảm.

Thứ hai: Thẩm quyền Viện kiểm sát Nhân dân khu vực trong thực hành quyền công tố

Thành viên CLB Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật nêu câu hỏi: Tôi được biết, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân (VKSND) tối cao vừa ban hành Thông tư quy định thẩm quyền của VKSND các cấp trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ việc, vụ án hình sự. Xin cho biết, thẩm quyền của VKSND tối cao?

Mới đây, Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Thông tư 02/2025/TT-VKSTC quy định thẩm quyền của VKSND các cấp trong thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ việc, vụ án hình sự.

Trong đó, mục 1, thẩm quyền của VKSND tối cao như sau: Tại Điều 4. Thẩm quyền của VKSND tối cao trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố

a, Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố đối với vụ việc, vụ án hình sự do Cơ quan Cảnh sát điều tra và Cơ quan An ninh điều tra của Bộ Công an, Cơ quan điều tra VKSND tối cao thụ lý, giải quyết.

Chậm nhất 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, VKSND tối cao thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi ra quyết định truy tố, VKSND tối cao quyết định phân công cho Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng do VKSND tối cao chuyển đến, Viện kiểm sát được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo quy định.

B, Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra đối với vụ việc, vụ án hình sự do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền ở cấp T.Ư thụ lý, giải quyết hoặc đối với các vụ việc, vụ án khác khi xét thấy cần thiết.

Tại Điều 5. Thẩm quyền của VKSND tối cao trong thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự

Trong đó, Vụ Công tố và Kiểm sát xét xử hình sự VKSND tối cao (Vụ 7) tham mưu giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện thẩm quyền sau: Giải quyết đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân (TAND) tối cao, TAND cấp tỉnh; giải quyết đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND khu vực khi xét thấy cần thiết; Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao, TAND cấp tỉnh đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; thực hành quyền công tố, kiểm sát việc xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

Trong trường hợp Viện trưởng VKSND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND khu vực thì phân công Viện kiểm sát Nhân dân cấp tỉnh thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Ngoài ra, Viện Công tố và Kiểm sát xét xử phúc thẩm VKSND tối cao (Viện Phúc thẩm) tham mưu giúp Viện trưởng VKSND tối cao thực hiện thẩm quyền sau: Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án, Quyết định số thẩm của TAND cấp tỉnh trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao; Phát hiện vi phạm pháp luật và thông báo cho Vụ 7 để báo cáo Viện trưởng VKSND tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao, TAND cấp tỉnh trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

Tại Điều 6. Thẩm quyền của VKSND tối cao trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự, đặc xá, trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định việc ân giảm đối với người bị kết án tử hình

Cụ thể, Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự của cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, cơ quan có nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp: Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù tại trại tạm giam thuộc Bộ Công an; Kiểm sát việc thi hành biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại cơ sở bắt buộc chữa bệnh của Bộ Y tế; thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với người chưa thành niên; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự tại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, cơ sở lưu trú khi xét thấy cần thiết.

Cùng với đó, Kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị đặc xá, thực hiện quyết định đặc xá: Trực tiếp kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị đặc xá và thực hiện quyết định đặc xá của Chủ tịch nước tại các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an; Trực tiếp kiểm sát việc lập hồ sơ đề nghị đặc xá, thực hiện quyết định đặc xá tại trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, TAND cấp tỉnh thuộc thẩm quyền kiểm sát của VKSND cấp tỉnh quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật Đặc xá khi xét thấy cần thiết.

Mặt khác, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, về quản lý giáo dục phạm nhân; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự của cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại trong công tác đặc xá. Trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định việc ân giảm đối với người bị kết án tử hình.

CTV TVPL Bùi Văn Hải (Trung tâm TTLCC) – CTV TVPL Trần Ngọc Danh (Trung tâm TVPLMS)

Bài viết liên quan

Back to top button