Xã hội

Ông Hồ Minh Sơn phân tích tình huống pháp lý liên quan lạm dụng chiếm đoạt tài sản và không khắc phục hết số tiền?

(HNTTO) – Tại buổi tham vấn pháp luật miễn phí dành cho các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) và Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) vào sáng ngày 03/11/2025, tại số 414, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh (đầu cầu tại trụ sở Viện IMRIC). Chươngtrình do Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến. Với việc trợ giúp pháp lý là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước dành cho những người không có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí, theo đó người nghèo, người yếu thế trong xã hội được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật. 

Trong quá trình hoạt động của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…

Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vnwww.doanhnghiepnongnghiep.vnwww.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…

Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…

Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Viện IMRIC; Viện IRLIE; Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn phối hợp Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trongsuốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…

Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, Viện trưởng Viện IMRIC Hồ Minh Sơn – Giám đốc Trung tâm TTLCC đã phân tích về hai tình huống pháp lý liên quan lạm dụng chiếm đoạt tài sản và không khắc phục hết số tiền cụ thể như sau:

Tình huống 1: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù

Đặc trưng của tội phạm này là thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó,hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả, hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017),tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có các khung hình phạt như sau:

Khung 1: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tái phạm nguy hiểm.

Khung 3: Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

Khung 4: Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Trong trường hợp chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt hành chính từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Không khắc phục được hết số tiền phải bồi thường, phạm nhân có cơ hội giảm án?

Tội phạm tham nhũng được quy định trong Bộ luật Hình sự bao gồm 07 tội như sau: Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội nhận hối lộ (Điều 354); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 357); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358); Tội giả mạo trong công tác (Điều 359).

Để khắc phục hậu quả được hiểu là khắc phục những thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp do hành vi phạm tội của mình gây nên mà những thiệt này không thể sửa chữa được. Trong đó, việc người phạm tội tự nguyện bồi thường hoặc khắc phục hậu quả thể hiện thái độ ăn năn, hối cải, là yếu tố thể hiện sự tiến bộ và cải tạo tốt, được xem xét giảm án. Tuy nhiên, một phạm nhân chưa khắc phục hết tiền bồi thường vẫn có thể được giảm án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2025), người bị kết án phạt tù có thể được giảm thời hạn chấp hành án nếu “đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”.

Công văn số 64/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao, tình tiết “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” trong khoản 1 Điều 63 BLHS cũng được giải thích cụ thể: Được hiểu là người bị kết án đã bồi thường được ít nhất một nửa nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp bồi thường ít hơn nhưng có thỏa thuận của người bị hại hoặc văn bản miễn, giảm nghĩa vụ dân sự được cơ quan có thẩm quyền xác nhận thì vẫn được coi là đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”.

Pháp luật không yêu cầu phải bồi thường toàn bộ nghĩa vụ dân sự mới được xem xét giảm án. Chỉ cần người phạm tội đã bồi thường một phần, thể hiện thiện chí khắc phục hậu quả, thì vẫn đủ điều kiện để được đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù…

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định 118/2024/NĐ-CP, một trong các tiêu chí xếp loại chấp hành hình phạt tù mức “tốt” là: “Tích cực khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, thể hiện qua việc đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường hoặc có tài sản kê biên, hoặc có thỏa thuận với người được thi hành án, hoặc có quyết định đình chỉ, miễn thi hành án…

Kể cả khi phạm nhân chưa bồi thường xong nhưng có thiện chí, có tài sản bị kê biên đủ bảo đảm thi hành án hoặc được người bị hại xác nhận đồng ý, thì vẫn được coi là tích cực khắc phục hậu quả. Đây là điều kiện quan trọng để xếp loại khá, tốt và được đề nghị giảm án theo Điều 6 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC.

Tại điểm e khoản 2 Điều 38 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, hồ sơ đề nghị giảm án phải có tài liệu chứng minh kết quả bồi thường nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, đây không phải điều kiện tiên quyết mà là yếu tố để Tòa án xem xét mức độ cải tạo, tiến bộ của phạm nhân.

Vì vậy, phạm nhân không khắc phục được hết tiền bồi thường vẫn có thể được xét giảm án, nếu đáp ứng đủ các điều kiện về cải tạo, học tập, lao động và xếp loại khá trở lên. Việc bồi thường một phần nghĩa vụ dân sự hoặc có thỏa thuận với người bị hại được coi là đủ điều kiện để xét giảm án. Chỉ đối với một số tội phạm tham nhũng (tội tham ô, tội nhận hối lộ mà mức án họ bị tuyên phạt là chung thân), việc bồi thường ít nhất ba phần tư tài sản chiếm đoạt là điều kiện bắt buộc để được xem xét giảm án’

Tại điểm đ, khoản 1, điều 11, Luật Đặc xá, một trong những điều kiện để người bị kết án phạt tù được xem xét hưởng đặc xá là họ đã thi hành xong toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại, nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, trừ trường hợp họ bị kết án về các tội phạm tham nhũng…

CTV TVPL Bùi Văn Hải (Trung tâm TTLCC) – CTV TVPL Trần Ngọc Danh (Trung tâm TVPLMS)

 

Bài viết liên quan

Back to top button