Nghiên cứu trao đổi

Trình tự miễn chấp hành án phạt tù, thực hiện như thế nào và hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả chịu khung hình phạt nào?

(HNTTO) – Có thể thấy, việc trợ giúp pháp lý là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước dành cho những người không có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí, theo đó người nghèo, người yếu thế trong xã hội được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.

Trong quá trình hoạt động của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…

Cụ thể, vào sáng ngày 21/10/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, TP.HCM. Viện IMRIC phối hợp Viện IRLIE giao Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi tham vấn, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến. Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vnwww.doanhnghiepnongnghiep.vn (liên kết Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam); www.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…

Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…

Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Viện IMRIC; Viện IRLIE và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn; Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trong suốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…

Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, các luật gia, luật sư, tư vấn viên, cộng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) đã phân tích một số tình huống pháp lý liên quan cụ thể như sau:

Thứ nhất: Trình tự miễn chấp hành án phạt tù, thực hiện như thế nào?

Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt đã tuyên hoặc tiếp tục chấp hành phần hình phạt còn lại.

Điển hình, qua theo giỏi báo chí đưa tin về vụ án Trần Huỳnh Kiệt (25 tuổi, Khánh Hòa) bị kết án vì hành vi tảo hôn với người vợ chưa đủ 16 tuổi đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Bên cạnh những băn khoăn về ranh giới giữa tập quán và pháp luật…

Các doanh nghiệp thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE đặt câu hỏi: Quy trình miễn chấp hành án phạt tù được thực hiện như thế nào? Trường hợp nào đủ điều kiện áp dụng và khi nào thì không

Có thể thấy, miễn chấp hành án phạt tù không có nghĩa là bỏ qua vi phạm. Người phạm tội vẫn có bản án, vẫn mang án tích, và tác động răn đe vẫn tồn tại. Đây là vụ án điển hình cho sự va chạm giữa ba lớp giá trị: pháp luật hiện đại, tập quán truyền thống và nhu cầu đạo lý đời sống.

Dưới góc độ pháp lý để phân tích, quy định độ tuổi kết hôn (nam từ 20, nữ từ 18) không phải chỉ mang tính hình thức, mà là một hàng rào pháp lý nhằm bảo vệ sự phát triển thể chất, tinh thần và sứckhoẻ sinh sản của thanh thiếu niên. Thế nhưng, tại một số vùng nông thôn, tập quán “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng” vẫn còn phổ biến. Cùng với sự hạn chế trong nhận thức pháp luật, điều này dễ dẫn đến các hành vi vi phạm.

Ở vụ án này, trường hợp của Kiệt, điều đặc biệt là hôn nhân có thật, tình cảm thật, gia đình thật và con cái thật. “Pháp luật buộc phải xử lý để răn đe, nhưng đồng thời cũng đối diện thách thức, làm sao không đẩy một gia đình trẻ vào cảnh tan vỡ”,

Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 được ghi nhận tại các Điều 19, 25, 69, 80, 289, 290, 314, trong đó quy định về miễn trách nhiệm hình sự bao gồm hai loại quy định có tính chất bắt buộc và quy định có tính chất tùy nghi. Với những quy định có tính chất bắt buộc khi gặp những trường hợp phù hợp với nội dung điều luật quy định, cơ quan có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, với những quy định có tính tùy nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể đánh giá tính chất, mức độ của sự việc để quyết định miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

BLHS năm 2015 đã quy định đầy đủ các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, tuy nhiên quá trình áp dụng vào thực tiễn vẫn còn những quan điểm, cách hiểu khác nhau. Tại Điều 29 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Chế định miễn chấp hành hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo đối với người bị kết án có hoàn cảnh đặc biệt và khuyến khích người bị kết án cố gắng lập công chuộc tội để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.

Chế định miễn chấp hành hình phạt tại Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định điều kiện “được miễn” hoặc “có thể” được miễn chấp hành hình phạt; miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc là miễn chấp hành phần còn lại của hình phạt đã tuyên.

Lúc nào được miễn chấp hành án tù?

Qua tham chiếu Bộ luật Hình sự và Luật Thi hành án hình sự, miễn chấp hành án phạt tù là một chế định nhân đạo. Tòa án có thể xem xét không buộc người bị kết án phải đi tù trong những trường hợp đặc biệt như: người mắc bệnh hiểm nghèo, không còn khả năng cải tạo…

Ngược lại, miễn chấp hành án tù không được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, các tội về an ninh quốc gia, tham nhũng, ma túy, hoặc khi người phạm tội chưa khắc phục hậu quả.

Ở vụ án Trần Huỳnh Kiệt, có cơ sở để cân nhắc miễn chấp hành án phạt tù: “Trần Huỳnh Kiệt có nhân thân tốt, không tiền án tiền sự, động cơ phạm tội xuất phát từ tập quán chứ không phải xấu xa.Kiệt đã lập gia đình, có con nhỏ, việc buộc đi tù không chỉ là trừng phạt cá nhân mà còn đẩy vợ con vào cảnh khó khan… 

Pháp luật nghiêm minh nhưng cũng phải nhân văn

Có thể hiểu, nên phân biệt rõ: miễn chấp hành án phạt tù không có nghĩa là bỏ qua vi phạm. Người phạm tội vẫn có bản án, vẫn mang án tích, tác động răn đe vẫn tồn tại. Tuy nhiên thay vì giam giữ, nhà nước trao cơ hội sửa sai ngoài xã hội, dưới sự giám sát cộng đồng. Điển hình, ở vụ án này trừng phạt mà thiếu nhân văn có thể gây hệ quả lớn hơn: gia đình tan vỡ, con cái mất cha, xã hội mất đi một lao động, cộng đồng thêm một người mang mặc cảm tù tội. Nhân đạo ở đây chính là phòng ngừa tái phạm hiệu quả hơn….

Tin rằng thông qua vụ án Kiệt, có ba điều cần suy ngẫm: Mỗi gia đình, cộng đồng cần hiểu rõ: tảo hôn không còn là “chuyện nhỏ”, mà là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, có thể dẫn tới án tù. Nhà nước và tổ chức xã hội cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm lan toả kiến thức pháp luật về độ tuổi kết hôn đến tận thôn bản, trường học, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Cần sự chung tay của chính quyền, đoàn thể, nhà trường và gia đình để pháp luật đi vào nhận thức cộng đồng.

Thứ hai: Khung hình phạt nào cho hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả?

Có thể thấy, đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả có thể bị xử phạt tiền từ 100 triệu đến 18 tỷ đồng hoặc phạt tù lên tới chung thân, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả gây ra.

Trong đó, hành vi sản xuất, buôn bán các loại hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa đơn, chứng từ, hàng hết hạn sử dụng, hàng nhái, hàng kém chất lượng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự

Đối với những hành vi vi phạm này, khi chưa đủ căn cứ để xử lý về hình sự thì được xử lý hành chính căn cứ theo Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả sẽ bị xử lý như thế nào? và quy định tại văn bản nào? Mức phạt tù cho tội danh này cụ thể như thế nào?

Hành vi sản xuất, buôn bán, kinh doanh hàng giả đến mức phải xử lý theo Luật Hình sự, sẽ bị xử lý theo các Tội danh quy định trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tại Điều 192 – tội sản xuất, buôn bán hàng giả:

Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Làm chết người; Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại; Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: Hàng giả có giá thành sản xuất 100.000.000 đồng trở lên; Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn từ 200.000.000 đồng trở lên; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; Làm chết 02 người trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Cùng với đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Tại Điều 193 – tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm:

Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại; Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn 200.000.000 đồng trở lên; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; Làm chết người; Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: Thu lợi bất chính từ 1.500.000.000 đồng trở lên; Làm chết 02 người trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 18.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Tại Điều 194 – tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:

Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại; Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn 200.000.000 đồng trở lên; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng; Làm chết người; Gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên; Làm chết 02 người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Song song đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 15.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Tại Điều 195 – tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi:

Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Hàng giả trị giá từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng công dụng trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 150.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả trị giá dưới 20.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng công dụng trị giá dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: Có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại; Hàng giả trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm: Hàng giả có giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn 200.000.000 đồng trở lên; Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật trị giá 500.000.000 đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm: Gây thiệt hại về tài sản 3.000.000.000 đồng trở lên; Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Pháp nhân thương mại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

Trên đây là một số giải đáp, cập nhật thông tin, qua đó rất mong quý doanh nghiệp thành viên, cộng đồng doanh nghiệp và người dân tham khảo, lan toả trong cộng đồng để phát triển kinh doanh nhưng phải thượng tôn pháp luật. Đặc biệt, nếu có thắc mắc hoặc cần giải đáp, hay trợ giúp pháp lý thì liên hệ chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ miễn phí…

Viện trưởng Viện IMRIC, Gs.Ts. Hồ Minh Sơn – Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm

 

Bài viết liên quan

Back to top button