Nghiên cứu trao đổi

TS. Hồ Minh Sơn: Hành vi không tố giác tội phạm, theo quy định của pháp luật, sẽ bị xử lý như thế nào?

(HNTTO) – Có thể thấy, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), việc xác định đúng và trúng nội dung PBGDPL là yếu tố quan trọng, bảo đảm tính cần thiết để thực hiện hoạt động PBGDPL đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn. Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) tổ chức các buổi hội thoại, hội thảo, toạ đàm, tham vấn pháp luật bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến cho công dân. Bởi, xác định công tác truyền thông, tuyên truyền phổ biến pháp luật mong muốn tạo chuyển biến trong nhận thức và ý thức tuân thủ, chấp hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân.

Cụ thể, sáng ngày 17/05/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp.HCM, Viện IMRIC và Viện IRLIE; Tạp chí DN&TTVN chủ trì, Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm và Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) mong muốn sự nhận thức của cán bộ, nhân dân trong việc thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật ứng dụng trong cuộc sống.

Với sự đổi mới, sáng tạo về hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL), đảm bảo thực chất, hiệu quả. Thông qua hình thức như tổ chức Hội nghị tuyên truyền, PBGDPL; có thể thấy đây như một sinh hoạt về tìm hiểu pháp luật…đảm bảo phù hợp với từng nhóm đối tượng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tuyên truyền, PBGDPL (qua cổng trang thông tin điện tử; các luật gia, luật sư và tư vấn viên pháp luật lấy thực tiễn diễn ra công tác xét xử, trợ giúp pháp lý; công tác hòa giải ở cơ sở…Tin rằng, công dân muốn tìm hiểu, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật, hình thành nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của công dân.

Trong tình hình khoa học công nghệ phát triển như vũ bão gần đây, tuyên truyền phổ biến GDPL nếu có thể thực hiện qua các hình thức trực tuyến thì ngày càng tiếp cận được với đông đảo đối tượng, nhất là các đối tượng trẻ và trung tuổi. Hiện nay, không chỉ ở đô thị mà ngay cả ở nông thôn, khu vực miền núi thường xuyên tham gia bằng hình thức trực tuyến để tìm kiếm thông tin, từ đó sự triển khai rộng rãi việc PBGDPL ngày càng trở nên một kênh hữu hiệu để đưa thông tin pháp luật đến với cộng đồng…

Tại buổi tham vấn lần này, sau khi lắng nghe các câu hỏi, các tình huống được các luật gia, luật sư, các tư vấn viên pháp luật giải đáp một cách cụ thể, TS. Hồ Minh Sơn đã trực tiếp phân tích về tình huống pháp lý đối với hành vi không tố giác tội phạm, theo quy định của pháp luật, sẽ bị xử lý như thế nào?

Nêu ví dụ điển hình, Công an tỉnh Quảng Ninh mới đây đã khởi tố đối tượng Bùi Đình Khánh về các tội Giết người; Mua bán trái phép chất ma tuý; Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Bêncạnh việc Bùi Đình Khánh bị khởi tố, bắt tạm giam, bạn gái của Khánh là Nguyễn Hoài Thương cũng bị khởi tố về hành vi Che giấu tội phạm. Đây là vụ án liên quan các đối tượng buôn ma túy bắn tử vong một cán bộ công an ở Quảng Ninh.

Khi phát hiện người thân của mình phạm tội, thì tùy từng giai đoạn phạm tội và hành vi của người dân mà pháp luật sẽ có những quy định khác nhau. Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần phân biệt được thế nào là: “Không tố giác tội phạm” và thế nào là “Che dấu tội phạm”.

Cụ thể:

Đối với hành vi “Không tố giác tội phạm”, theo quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, pháp luật hình sự hiện hành đang quy định rằng người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Không tố giác tội phạm. Trong trường hợp này, hành vi của chủ thể là biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng không tố giác với cơ quan chức năng có thẩm quyền mặc dù đã biết rất rõ về tội phạm.

Đối với hành vi “Che dấu tội phạm”, theo quy định tại Điều 389 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, pháp luật hình sự hiện hành cũng quy định người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, giấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm. Biểu hiện của hành vi này thường được thể hiện ở các dạng khác nhau như: Che giấu người phạm tội (vd: Cho người phạm tội trốn trong nhà mình hoặc nơi khác hoặc biết người phạm tội đang ở đâu nhưng không khai báo và tìm mọi cách che giấu người phạm tội); Che giấu giấu vết, tang vật của tội phạm hoặc hành vi cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm (Ví dụ: cố tình cung cấp các thông tin sai sự thật, xóa bỏ giấu vết của tội phạm, tiêu hủy các công cụ, phương tiện tội phạm…)

Do vậy, có thể hiểu đơn giản là khi biết rõ tội phạm đang chuẩn bị được thực hiện, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì tùy trường hợp sẽ bị xử lý về tội Không tố giác tội phạm. Trường hợp không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, giấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm theo quy định.

Mặc dù vậy, không phải trường hợp nào có hành vi che dấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự, bởi: Pháp luật hình sự cũng có quy định rất nhân văn, dựa trên tâm lý, đạo đức trong mối quan hệ ruột thịt và một phần của đạo lý truyền thống của người Việt Nam, đó là:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 19 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, trường hợp người có hành vi không tố giác tội phạm nhưng người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định (trừ trường hợp không tố giác các tội về Xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 18 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, trường hợp người có hành vi che dấu tội phạm nhưng người Che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định (trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định).

Do vậy, khi rơi vào hoàn cảnh này, người dân có thể tìm gặp Luật sư để được tư vấn xem hành vi của mình là không tố giác hay che dấu tội phạm, hành vi đó của mình có thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hay không để có thể đưa ra được quyết định đúng đắn nhất, tránh trường hợp vi phạm pháp luật.

Khi phát hiện hành vi phạm tội hay biết tin báo về tội phạm và thấy cần thiết phải trình trình báo, người dân có thể thực hiện tố giác bằng hình thức văn bản hoặc lời nói. Người dân có thể đến trình báo (bằng lời) hoặc văn bản gửi đến Công an cấp xã/phường nơi cư trú. Cạnh đó, người dân có thể gọi điện đến đường dây nóng của Cục Cảnh sát Hình sự, Bộ Công an hoặc đường dây nóng của Công an các tỉnh, thành phố để tố giác tội phạm.

Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, để xác định được hành vi có phải là hành vi phạm tội hay không thì cần phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục và phải có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quá trình trên diễn ra, để biết hành vi của người thân mình có dấu hiệu của tội phạm hay không thì cần phải có có căn cứ chứng minh cũng như đánh giá từ những người có chuyên môn. Trong trường hợp muốn biết hành vi của người thân mình có dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không thì người dân có thể lắng nghe ý kiến tư vấn từ những người có chuyên môn như các luật sư có nhiều năm kinh nghiệm thực tiễn hành nghề.

Về tâm lý, những người thân thích như bố mẹ, vợ hay bạn gái đều sẽ có tâm lý bao che do có mối quan hệ huyết thống, vợ chồng hay mối quan hệ tình cảm yêu đương. Mặ dù vậy, đối với cả hai trường hợp này, người phạm tội đều phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên người thân thích không thuộc trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định.

Vì lẻ đó, khi người phạm tội phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo quy định thì người thân thích nếu biết về hành vi hay tin báo về tội phạm thì không được che dấu người phạm tội, giấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Đồng thời, người thân vẫn phải trình báo với cơ quan có thẩm quyền để không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hiểu như thế nào về hành vi không tố giác tội phạm?

Tại khoản 1 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), hành vi không tố giác tội phạm được hiểu là hành vi của người biết rõ về việc một tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện, nhưng không thực hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm đó với cơ quan có thẩm quyền.

Theo Điều 390 của Bộ luật Hình sự, có nghĩa là nếu một người biết rõ có tội phạm xảy ra hoặc đang xảy ra xung quanh mình mà không báo cáo cho cơ quan chức năng, thì người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm.

Trong đó, hành vi không tố giác tội phạm không chỉ bao gồm việc không báo cho cơ quan chức năng biết về một tội phạm đã được thực hiện mà còn bao gồm cả việc biết trước một tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang trong quá trình thực hiện nhưng vẫn giữ im lặng, không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để ngừng hành vi vi phạm.

Như vậy, nghĩa vụ của mỗi công dân trong việc góp phần ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm, đồng thời cũng thể hiện vai trò trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Đối vớihành vi không tố giác tội phạm không chỉ là một sự thiếu sót về mặt đạo đức mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về pháp lý, khi người không tố giác có thể phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.

Xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự đối với việc không tố giác tội phạm?

Tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), hành vi không tố giác tội phạm của một số đối tượng nhất định sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đặc biệt, những người là thân nhân trực hệ của người phạm tội, bao gồm ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm, trừ trường hợp họ không tố giác các tội phạm được quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự quy định về các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, do đó, những hành vi không tố giác liên quan đến các tội phạm này sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự, dù đối tượng là người thân của người phạm tội.

Song song với đó, điều luật cũng quy định một ngoại lệ khác đối với những người thực hiện chức năng bào chữa. Người bào chữa, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thân chủ, không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác tội phạm, trừ khi hành vi phạm tội mà họ biết được là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm quy định tại Chương XIII mà chính người mà họ bào chữa đang chuẩn bị, thực hiện hoặc đã thực hiện, và người bào chữa biết rõ về hành vi phạm tội đó khi thực hiện việc bào chữa.

Do vậy, những đối tượng như người thân trong gia đình hoặc người thực hiện chức năng bào chữa, dù không tố giác tội phạm, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, vẫn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này nhằm tạo sự linh hoạt và bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trong những tình huống đặc thù, như bảo vệ quyền riêng tư của gia đình hay bảo vệ quyền bào chữa hợp pháp của người bị cáo.

Nếu là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, pháp luật sẽ yêu cầu những cá nhân này thực hiện nghĩa vụ tố giác để bảo vệ lợi ích chung của xã hội.

Tại Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung, nếu họ biết rõ về hành vi phạm tội liên quan đến các tội đặc biệt nghiêm trọng dưới đây mà không thực hiện nghĩa vụ tố giác thì sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự: Tội phản bội Tổ quốc, quy định tại Điều 108 Bộ luật Hình sự 2015, là hành vi xâm phạm lợi ích của quốc gia, đi ngược lại với sự tồn vong của đất nước; Tội phản bội Tổ quốc, quy định tại Điều 109, là hành vi lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm an ninh quốc gia; Tội gián điệp, quy định tại Điều 110, là hành vi thu thập, cung cấp thông tin có lợi cho kẻ thù, gây tổn hại đến an ninh quốc gia; Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ, quy định tại Điều 111, là hành vi đe dọa hoặc tấn công vào biên giới, lãnh thổ của Việt Nam; Tội bạo loạn, quy định tại Điều 112, là hành vi tổ chức, tham gia vào các cuộc bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền; Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 113, là hành vi sử dụng bạo lực để phá hoại an ninh quốc gia; Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định tại Điều 114, là hành vi gây hư hại các công trình quan trọng, thiết yếu của quốc gia; Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội, quy định tại Điều 115, là hành vi làm gián đoạn các chương trình, chính sách phát triển của đất nước; Tội phá hoại chính sách đoàn kết, quy định tại Điều 116, là hành vi gây chia rẽ, làm suy yếu mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội; Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định tại Điều 117, là hành vi phát tán các thông tin sai sự thật, kích động thù hận, chống lại Nhà nước; Tội phá rối an ninh, quy định tại Điều 118, là hành vi gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội; Tội chống phá cơ sở giam giữ, quy định tại Điều 119, là hành vi tấn công vào các cơ sở giam giữ, nhằm giải cứu tù nhân hoặc phá vỡ hệ thống thi hành án; Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 120, là hành vi giúp đỡ, tổ chức cho người khác trốn khỏi đất nước, vi phạm luật pháp quốc gia; Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 121, là hành vi vi phạm pháp luật bằng cách lẩn trốn, sống ngoài lãnh thổ Việt Nam để tránh sự kiểm soát của nhà nước.

Những tội phạm này không chỉ xâm phạm đến lợi ích, an ninh quốc gia mà còn đe dọa đến trật tự xã hội, sự ổn định và phát triển của đất nước. Chính lẻ đó, pháp luật yêu cầu mọi công dân, kể cả những người thân của người phạm tội hoặc người bào chữa, phải có nghĩa vụ tố giác những hành vi phạm tội này. Việc không tố giác có thể dẫn đến việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhằm đảm bảo rằng những hành vi phạm tội nghiêm trọng không được che giấu và sẽ bị xử lý kịp thời để bảo vệ an ninh, trật tự quốc gia.

Hình phạt đối với hành vi không tố giác tội phạm

Tại Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung bởi khoản 138 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), tội không tố giác tội phạm được quy định cụ thể đối với những người biết rõ về các tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đã và đang được thực hiện, nhưng không tố giác hành vi phạm tội đó với cơ quan có thẩm quyền.

Lưu ý: Hành vi không tố giác này không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo các quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật Hình sự, thì người không tố giác sẽ bị xử lý bằng hình thức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Pháp luật cũng quy định một tình tiết giảm nhẹ đối với người không tố giác tội phạm. Do vậy, nếu người này đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc đã chủ động hạn chế tác hại của tội phạm, ví dụ như ngừng hành vi phạm tội, giúp đỡ khắc phục hậu quả hoặc ngăn chặn sự lan rộng của hành vi phạm tội, thì họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Đây là một điểm quan trọng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, khuyến khích những người biết về hành vi phạm tội nhưng có ý thức sửa chữa, cải thiện hành vi của mình hoặc có những hành động tích cực, góp phần giảm thiểu hậu quả của tội phạm…

CTV TVPL Bùi Văn Hải – Trung tâm TTLCC; CTV TVPL Trần Ngọc Danh – Trung tâm TTTVPLMS

Bài viết liên quan

Back to top button