Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn: Con dâu vô sinh, mẹ chồng có quyền yêu cầu hủy kết hôn – Có được thỏa thuận phạt cọc gấp 3,4 lần tiền cọc nếu bên bán bùng kèo?

(HNTTO) – Ngày 26/02/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, TP.HCM, Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) tổ chức buổi tham vấn pháp lý bằng hình thức trực tuyến liên quan đến hai vụ việc: Con dâu vô sinh, mẹ chồng có quyền yêu cầu hủy kết hôn – Có được thỏa thuận phạt cọc gấp 3,4 lần tiền cọc nếu bên bán bùng kèo mà quý độc giả và cộng đồng doanh nghiệp quan tâm trong suốt thời gian gần đây…
Trường hợp thứ nhất: Vợ tôi biết mình bị vô sinh trước khi cưới, nhưng vẫn kết hôn với tôi (khi đó tôi không biết). Đến nay, mẹ tôi biết được sự việc và muốn ra Tòa án hủy kết hôn; Trường hợp thứ hai: Có thể thỏa thuận phạt cọc gấp 3 lần, thậm chí 4, 5 lần số tiền đặt cọc nếu như bên bán không bán nhà đất hay không là thắc mắc của bạn đọc.
Ở trường hợp thứ nhất: Con dâu vô sinh, mẹ chồng có quyền yêu cầu hủy kết hôn không?
Người mẹ tôi có quyền yêu cầu hủy kết hôn không?
Người con dâu biết mình bị vô sinh từ trước khi cưới nhưng không cho gia đình chồng biết. Liệu mẹ chồng có quyền yêu cầu Tòa án hủy đăng ký kết hôn.
Tự nguyện là một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc kết hôn và duy trì hạnh phúc của hôn nhân và gia đình. Do đó, các hành vi lừa dối kết hôn – tức là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn, là những hành vi bị cấm và không được pháp luật công nhận.
Căn cứ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể: Người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật: Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này (Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định); Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm…
Căn cứ theo quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này: Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
Căn cứ tại quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đối với trường hợp kết hôn do bị lừa dối, thì chỉ có người bị lừa dối có quyền yêu cầu độc lập Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp. Trường hợp những cá nhân, tổ chức khác có quyền yêu Tòa án tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật, khi có đề nghị của người bị lừa dối kết hôn.
Do đó, đối với trường hợp này, mẹ chồng không có quyền yêu cầu Tòa án hủy đăng ký kết hôn của vợ chồng anh nếu không có đề nghị của chính bản thân anh.
Ở trường hợp thứ hai: Có được thỏa thuận phạt cọc gấp 3,4 lần tiền cọc nếu bên bán bùng kèo?
Độc giải nêu câu hỏi: Cho hỏi tôi có thể thỏa thuận phạt cọc gấp 3 lần, thậm chí 4, 5 lần số tiền đặt cọc nếu như bên bán không bán nhà đất cho tôi hay không?
Căn cứ theo Điều 328 BLDS năm 2015, đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Trong trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc (bên mua) từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc (bên bán); nếu bên bán từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên mua tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Vì vậy, về nguyên tắc, nếu bên bán từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên mua tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Thế nhưng, pháp luật vẫn cho phép các bên có thỏa thuận khác.
Vì lẻ đó, trường hợp để đảm bảo cho việc giao kết, thực hiện hợp đồng “bán” đất (hay còn gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất), nếu các bên có thỏa thuận bên bán (đồng thời là bên nhận cọc) sẽ bị phạt cọc gấp 3 lần số tiền nhận cọc nếu từ chối chuyển nhượng, thì thỏa thuận này là phù hợp với quy định của pháp luật.
Luật sư Phạm Lan Thảo – Phó giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn