Yếu tố pháp lý ra sao khi bị quấy rối tình dục – Tung tin giả ‘cầu cứu’ trên mạng xã hội để kêu gọi từ thiện có thể bị phạt tiền, phạt tù?

(HNTTO) – Trong thời gian gần đây, qua theo dõi trên không gian mạng xã hội, các cơ quan thông tấn báo chí đưa tin, nhiều độc giả, doanh nghiệp và người dân đã gửi thư về Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC); Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam; Tạp chí điện tử Việt Nam Hương Sắc yêu cầu tham vấn pháp lý liên quan đến việc một Á hậu bị quấy rối tình dục và tung tin giả để kêu gọi từ thiện…
Theo đó, từ vụ việc á hậu Hồng Đăng bị quấy rối tình dục, sẽ có những chế tài dành cho người có hành vi này ở các mức độ vẫn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Cạnh đó, sau hàng loạt các vụ ôm con ‘cầu cứu’ trên Facebook hay tung tin giả mất tiền trong bệnh viện nhằm kêu gọi từ thiện, nhiều người đặt câu hỏi, việc đăng tin sai sự thật hòng lợi dụng lòng tốt của người khác để trục lợi sẽ bị xử lý ra sao?
Ở trường hợp thứ nhất: Yếu tố pháp lý ra sao khi bị quấy rối tình dục?
Cụ thể, vụ Á hậu 2 Miss Universe Vietnam 2023 Trịnh Thị Hồng Đăng gần đây đã tố cáo một đối tượng quấy rối tình dục gây sốc giới giải trí. Điển hình, khi đang đi bộ đến phòng tập, cô bị một đối tượng lái xe máy ngược chiều bất ngờ sàm sỡ. Sau thời gian ngắn, á hậu quay lại hiện trường, tìm cách trích xuất camera an ninh để truy danh tính tên này.
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật hiện chưa có định nghĩa chung cho hành vi quấy rối tình dục. Căn cứ vào khoản 9 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 có quy định: “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận”.
Qua đó, có thể suy rộng ra quấy rối tình dục là “hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác”, có thể biểu hiện dưới nhiều dạng như lời nói, sự đụng chạm, cử chỉ cơ thể, thậm chí là tin nhắn, thư từ, bình luận trên mạng xã hội…Cần xem xét mức độ của hành vi thế nào là quấy rối. Nếu người nhận không muốn mà người có hành vi vẫn thực hiện, đó được xem là hành vi quấy rối tình dục và vi phạm pháp luật. Từ đó, việc chế tài, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi mà chủ thể có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ tại điểm đ khoản 5 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định, hành vi này có thể bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 5-8 triệu đồng về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Căn cứ theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 Nếu hành vi quấy rối tình dục ở mức độ nghiêm trọng, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt lên đến 5 năm tù.
Mặt khác, người vi phạm còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1-5 năm. Bên cạnh đó, người có hành vi quấy rối tình dục còn phải bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm như các chi phí hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập bị mất đi, giảm sút, tổn thất tinh thần, các khoản thiệt hại khác.
Căn cứ theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015, mức bồi thường tổn thất tinh thần do các bên thương lượng, nếu không thương lượng được mức bồi thường không quá 10 lần mức lương cơ sở.
Như vậy, khuyến nghị về những chế tài nêu trên chưa đủ sức răn đe với người cố tình thực hiện hành vi. Một bộ phận khác lại nhận thức không đầy đủ, cho rằng mình chỉ đang vui đùa với người mà không biết đó là hành vi quấy rối tình dục, trực tiếp xâm phạm họ.
Ở trường hợp thứ hai: Tung tin giả ‘cầu cứu’ trên mạng xã hội để kêu gọi từ thiện có thể bị phạt tiền, phạt tù
Điển hình, một người đàn ông tên N ở phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đăng lên mạng xã hội phản ánh việc con gái 9 tháng tuổi bị bạo hành bầm tím má khi gửi tại điểm trông giữ trẻ trên địa bàn phường kèm theo lời “cầu cứu” cơ quan chức năng vào cuộc. Trong bài viết, anh N thông tin việc con mình đang điều trị tại Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên do bị ho, ói, viêm ruột. Sau khi thông tin trên được đăng tải, cộng đồng mạng đã gửi tiền vào tài khoản của người đàn ông này để giúp đỡ với số tiền 495 triệu đồng. Tuy nhiên, kết quả xác minh cho thấy cháu bé bị ngã lên đống đồ chơi, không có việc bị bạo hành. Với số tiền từ thiện anh N đã nhận được, công an phường sở tại đang xin ý kiến của cấp trên để xử lý.
Tương tự, trước đó trên mạng xã hội cũng lan truyền đoạn clip người phụ nữ ôm đứa trẻ gào khóc cầu cứu trong khuôn viên Bệnh viện Nhi đồng, TP. HCM với nội dung bị móc túi mất số tiền 9,5 triệu đồng để kêu gọi mọi người giúp đỡ. Thế nhưng, theo cơ quan công an, người phụ nữ trong clip là Hồ Thị Xuân (SN 1987, ở Lâm Đồng) và thông tin bị móc túi mất số tiền 9,5 triệu đồng là sai sự thật. Cá nhân này cũng thừa nhận không có chuyện mình bị dàn cảnh móc túi mà do “vô ý” làm mất.
Dưới góc độ pháp lý, hành vi đăng tải thông tin kêu gọi từ thiện nhưng người bệnh không có thật hoặc có nhưng thông tin không chính xác nhằm mục đích nhận tiền của nhà hảo tâm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự.
Căn cứ theo Nghị định 93/2021/NĐ-CP có quy định, khi vận động, cá nhân có trách nhiệm thông báo trên phương tiện truyền thông về mục đích, phạm vi, phương thức, hình thức vận động, tài khoản tiếp nhận… Cá nhân tham gia vận động phải mở tài khoản riêng tại ngân hàng theo từng cuộc vận động, để tiếp nhận, quản lý toàn bộ tiền đóng góp…
Trường hợp dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản sẽ bị phạt tiền từ 2 -,3 triệu đồng. Ngoài ra, tại Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP còn bị tịch thu toàn bộ số tiền đã kêu gọi, quyên góp được.
Vì lẻ đó, nếu hành vi chiếm đoạt tiền từ thiện có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì cá nhân vi phạm có thể bị xử lý hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với khung hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù, thậm chí là tù chung thân.
Cùng với đó, người mạo danh kêu gọi từ thiện để chiếm đoạt còn có thể bị truy tố tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và có thể bị phạt tù đến 20 năm. Đồng thời, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10 – 100 triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 – 5 năm, hoặc tịch thu một phần, hay toàn bộ tài sản.
TS. Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện IMRIC, Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm