Nghiên cứu trao đổi

Lạm bàn mối lo về môi trường và sức khỏe đối với rác thải điện tử

(HNTTO) – Rác thải điện tử (e-waste) là những sản phẩm điện hoặc điện tử ở vòng đời cuối như hư hỏng, lỗi thời… và những loại rác này có thể đem tái chế được. Tuy nhiên, trong loại rác thải này thường chứa nhiều các chất độc chì, thủy ngân… đe dọa đến môi trường và sức khỏe của con người.

Có thể thấy, lượng rác thải điện tử khổng lồ đang trở thành mối đe dọa nghiêm trọng cho môi trường và sức khỏe con người. Qua đó, nếu xử lý không đúng quy trình khiến các chất độc hại như chì, thủy ngân, cadmium…ngấm vào đất, nước, không khí, gây ra những hệ lụy khôn lường…

Ảnh minh hoạ

Theo tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) cho thấy vào năm 2022, thế giới đã tạo ra 62 triệu tấn rác thải điện tử, tăng 82% so năm 2010. Số rác thải này có thể lấp đầy hơn 1,5 triệu chiếc xe tải có trọng tải 40 tấn. Ước tính vào năm 2030, tỷ lệ này sẽ tăng thêm 32%, lên 82 triệu tấn.Trong đó, có khoảng 1,39 tỷ chiếc điện thoại di động đã được bán trên toàn cầu và ước tính hơn 5 tỷ chiếc đã bị vứt đi vào năm 2023.

Mặc dù số lượng rác thải điện tử tăng chóng mặt, nhưng công suất tái chế lại không theo kịp đà tăng này; báo cáo của LHQ tính toán kể từ năm 2010, tốc độ tăng trưởng của rác thải điện tử đã nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của hoạt động thu gom và tái chế chính thức gần gấp 5 lần. Điển hình, trong tổng số sản phẩm điện tử bị bỏ đi trong năm 2022, chỉ khoảng 22,3% được thu gom và tái chế.

Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mang đến những tiện ích vượt bậc, bên cạnh đó cũng kéo theo hệ lụy về rác thải điện tử. Điện thoại, máy tính, tivi, tủ lạnh… sau một thời gian sử dụng nhanh chóng trở thành đồ phế thải. Mới đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố cho thấy, Việt Nam phát sinh khoảng 100.000 tấn rác thải điện tử mỗi năm. Con số này dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong bối cảnh người dân có xu hướng thay mới thiết bị nhiều hơn để bắt kịp xu hướng công nghệ.

Qua đó, rác thải điện tử tại Việt Nam phần lớn được thải bỏ không qua phân loại hoặc xử lý đúng cách, dẫn đến nguy cơ rò rỉ các chất độc hại ra môi trường. Mặt khác, hạ tầng tái chế và xử lý rác thải điện tử ở nước ta còn rất hạn chế, đa phần chỉ dừng lại ở mức thủ công. Từ đó, khiến các kim loại nặng và hóa chất độc hại trong các sản phẩm điện tử trở thành một mối đe dọa lớn, cả đối với môi trường lẫn sức khỏe cộng đồng. Có thể thấy, tác hại của rác thải điện tử đến môi trường, khí hậu và sức khỏe con người là điều không phải bàn cãi. Do vậy, việc quản lý và xử lý rác thải điện tử đúng cách sẽ giúp giảm tình trạng ô nhiễm toàn cầu.

Trên thực tế, năm 2022 thì việc tái chế kim loại từ rác thải điện tử thay vì chiết xuất nguyên liệu thô mới, đã giảm được khoảng 52 triệu tấn khí thải CO2. Việc quản lý tốt hơn chất thải điện tử như tủ lạnh và máy điều hòa không khí thải ra chất làm lạnh như chlorofluorocarbons – loại khí nhà kính mạnh, cũng có thể làm giảm tác động khí hậu của chất thải này.

Năm 2023, các nước trên thế giới trong đó có EU và Ấn Độ; tại Ấn Độ, từ lâu người dân đã có thói quen sửa chữa các đồ bị hỏng thay vì mua mới. Thói quen này đã giúp hạn chế việc vứt bỏ sản phẩm điện tử. Trong điều kiện những thiết bị không thể sửa được, chúng sẽ được thu gom và phân tách. Linh kiện còn có thể sử dụng hoặc tái chế sẽ được để riêng để bán cho thương lái.

Tại châu Âu, vào đầu năm nay, Nghị viện châu Âu (EP) đã ủng hộ mạnh mẽ quyền được sửa chữa ở tất cả 27 quốc gia thành viên. Một số quốc gia còn phát phiếu sửa chữa, bảo hành cho người dân, chi phí sẽ do nhà nước chi trả. Pháp cũng dán tem khả năng sửa chữa lên sản phẩm để người dân nắm được thông tin trước khi chọn mua. Tại Mỹ – một trong những quốc gia có lượng rác thải điện tử lớn nhất thế giới, vẫn chưa có luật liên bang quy định việc tái chế đồ điện tử. Duy chỉ riêng thủ đô Washington D.C đã thực hiện các quy định về loại rác thải nói trên.

Tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường cũng chỉ ra, mỗi năm phát sinh khoảng 100.000 tấn rác thải điện tử, chủ yếu là đồ gia dụng điện tử, văn phòng và ước tính đến năm 2025, riêng rác thải ti vi có thể lên tới 250.000 tấn. Trung bình hằng năm, một người thải ra môi trường 1kg rác thải điện tử, vậy tổng lượng rác thải điện tử lên tới khoảng 90.000 tấn/năm. Rác thải điện tử là loại rác thải cực độc hại, có nguy cơ hủy diệt môi trường (không khí, đất, nước) và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người như các bệnh ung thư, đường hô hấp, tim mạch và thần kinh.

Sự thay đổi công nghệ nhanh chóng đã rút ngắn vòng đời của sản phẩm điện tử. Các sản phẩm điện tử hư hỏng hoặc lỗi thời bị thải bỏ trở thành rác điện tử đang phát triển với tốc độ nhanh gấp 3 lần các loại rác thải khác. Việt Nam hiện vẫn chưa có một nghiên cứu toàn diện về an toàn vệ sinh lao động trong ngành điện tử, cũng như các chương trình nâng cao nhận thức các tác động tiêu cực của ngành này đối với sức khỏe con người và môi trường.

Theo tìm hiểu của Viện IMRIC phối hợp với Viện IRLIE thì công tác xử lý, tái chế chất thải điện tử, tỷ lệ xử lý chất thải điện tử còn đang ở mức độ. Các công ty được cấp phép phần lớn tập trung tháo dỡ, phá dỡ thủ công, chỉ có một số nhỏ công ty có đủ dây chuyền xử lý được cấp phép xử lý bảng mạch điện tử. Ngoài ra, Việt Nam mới chỉ tái chế được một phần các vật liệu thông thường như sắt, đồng, chì, thiếc, nhựa bằng các công nghệ cũ, thiết bị lạc hậu và chưa thể tái chế được các kim loại quý, vốn có hàm lượng cao trong chất thải điện tử.

Như vậy, rác thải điện tử chứa một lượng lớn chất độc hại như chì, thủy ngân, cadmium và các hợp chất brom hóa. Khi không được xử lý đúng cách, những chất này có thể ngấm vào đất, nước, và không khí, gây ra những tác động lâu dài. Cùng với đó, các kim loại nặng từ rác thải điện tử dễ dàng xâm nhập vào nguồn nước ngầm, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Điều này, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của con người mà còn làm suy giảm chất lượng đất, gây thiệt hại lớn cho ngành nông nghiệp.

Đặc biệt, việc đốt rác thải điện tử không qua xử lý để tái chế kim loại quý là nguyên nhân gây ra các loại khí độc như dioxin và furan. Những loại khí này không chỉ góp phần vào hiệu ứng nhà kính mà còn gây tổn thương nghiêm trọng đến hệ hô hấp của con người. Ví dụ, các khu vực tập trung bãi rác điện tử ở Việt Nam, như làng tái chế Minh Khai (Hưng Yên), đã ghi nhận mức độ ô nhiễm không khí vượt ngưỡng an toàn nhiều lần. Rác thải điện tử gây ra những tác hại khôn lường đối với môi trường nếu không xử lý rác điện tử đúng cách, các loại rác thải điện tử có thể giải phóng các chất độc hại như: Thủy ngân, chì, niken,… vào môi trường và sức khỏe con người cũng sẽ bị ảnh hưởng từ rác thải điện tử qua các con đường ô nhiễm đất, nước, không khí, lao động có tiếp xúc trực tiếp với rác thải.

Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng, tiếp xúc lâu dài với các chất độc hại từ rác thải điện tử có thể gây ra các bệnh lý nghiêm trọng như tổn thương thần kinh, suy giảm miễn dịch, và thậm chí là ung thư. Trẻ em, đối tượng nhạy cảm nhất, có nguy cơ bị rối loạn phát triển và dị tật bẩm sinh nếu sống gần các khu vực ô nhiễm. Cụ thể, một trong các nghiên cứu được công bố trong hội thảo quốc gia về công nghệ xử lý chất thải đô thị và khu công nghiệp Hà Nội cho thấy, các kim loại và hợp chất độc hại trong rác thải điện tử có khả năng gây ra các đột biến làm rối loạn quá trình trao đổi chất, gây ra những khuyết tật trong tế bào và cơ thể sống dẫn đến một số chứng bệnh viêm nhiễm, ung thư, rối loạn nội tiết.

Chẳng hạn, chì từ hoạt động tái chế rác thải điện tử có thể khiến phụ nữ mang thai sinh non hoặc thai chết lưu; có thể gây tổn thương não, hệ thần kinh dẫn đến suy giảm nhận thức của trẻ em. Còn nhiễm độc thủy ngân có thể gây đau bụng nôn mửa hoặc bệnh thiếu máu…Tuy nhiên, nguy hiểm hơn ngoại trừ một số hợp chất hữu cơ dễ bay hơi, tạo mùi có thể phát hiện bằng cảm quan để phòng tránh. Còn lại đại đa số các động tố trong chất thải rắn điện tử là không mùi, không vị, điều đó càng tạo nên tâm lý chủ quan đối với những người tiếp xúc trực tiếp khiến hậu quả càng trở nên khó lường hơn.

Ngoài ra, hoạt động tái chế, xử lý rác thải điện tử tại Việt Nam còn nhiều bất cập. Phần lớn rác thải điện tử được xử lý bởi các cơ sở nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, thiếu quy trình xử lý chuẩn. Hình ảnh những bãi rác điện tử ngổn ngang, hoạt động đốt, tháo dỡ thiết bị điện tử thủ công diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe người dân sống xung quanh. Thiếu hụt cơ sở xử lý đạt chuẩn, thiếu kinh phí đầu tư công nghệ, cùng với nhận thức của người dân về phân loại rác tại nguồn chưa cao là những nguyên nhân khiến tình trạng này chưa được cải thiện.

Thông qua bài viết này, tác giả mong muốn việc xây dựng và phát triển các cơ sở tái chế đạt chuẩn là yêu cầu cấp thiết. Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ tái chế hiện đại để tận dụng tối đa các vật liệu quý trong rác thải điện tử, đồng thời giảm thiểu tác động môi trường. Học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, Việt Nam cũng nên thúc đẩy các chính sách “trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất” (EPR), yêu cầu doanh nghiệp thu hồi và tái chế sản phẩm điện tử cũ.

Song song đó, cần xây dựng các nhà máy tái chế rác thải điện tử hiện đại với quy mô lớn, có khả năng thu hồi các kim loại quý, từ đó giải quyết hiệu quả lượng rác thải phát sinh. Trong đó, các mô hình tái chế tự phát cần được nâng cấp thành hệ thống thu gom, phân loại có kiểm soát, bảo đảm hiệu quả và an toàn. Cần chuyển đổi các nghiên cứu khoa học thành ứng dụng thực tiễn ở quy mô công nghiệp. Các cơ sở xử lý rác thải điện tử được cấp phép phải tuân thủ quy trình tái chế chung, bảo đảm mọi vật liệu đều được xử lý hiệu quả, hạn chế thất thoát tài nguyên.

Việc xây dựng hành lang pháp lý cũng rất quan trọng. Việt Nam cần sớm ban hành luật quản lý rác thải điện tử và chính quy hóa hoạt động tái chế. Từ đó, việc thiết lập hệ thống thu hồi sản phẩm điện tử thải bỏ theo đúng quy định pháp luật, nhằm kiểm soát nguồn gốc và tiết kiệm chi phí trong công tác thu gom, vận chuyển. Các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu cũng cần đầu tư vào nghiên cứu và phát triển giải pháp tái sử dụng sản phẩm điện tử đã qua sử dụng.

Có một số cách để xử lý rác thải điện tử một cách bền vững và an toàn cho môi trường, bao gồm: Tái chế và tái sử dụng: Thúc đẩy việc tái chế và tái sử dụng các thiết bị điện tử cũ để giảm lượng rác thải điện tử tạo ra. Tách và thu gom: Phân loại rác điện tử theo loại và thu gom chúng tại các điểm thu gom chính thức hoặc hệ thống tái chế. Xử lý an toàn: Sử dụng các phương pháp xử lý an toàn như xử lý cơ học, hóa học hoặc nhiệt để loại bỏ các chất độc hại khỏi rác thải điện tử. Thúc đẩy tiêu chuẩn tái chế: Khuyến khích và thúc đẩy việc sử dụng tiêu chuẩn tái chế cho việc xử lý rác thải điện tử để giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường và sức khỏe con người. Tìm kiếm các chương trình tái chế và tái sử dụng: Hỗ trợ các chương trình và dự án xã hội nhằm tái sử dụng và tái chế các thiết bị điện tử cũ để giúp giảm thiểu lượng rác thải điện tử.

Được biết, Bộ Tài nguyên và Môi trường cam kết tiếp tục hỗ trợ các địa phương và đơn vị tái chế trong công tác thu gom và xử lý rác thải điện tử. Bộ cũng đang hoàn thiện các chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rác thải điện tử và tăng cường kiểm tra, giám sát trách nhiệm của các nhà sản xuất và nhập khẩu theo quy định hiện hành.

Căn cứ vào Điều 54, 55 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra những quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu đối với việc tái chế, xử lý các sản phẩm thải bỏ. Kể từ ngày 1/2/2025, các loại chất thải điện, điện tử như máy tính bảng, máy tính xách tay, máy tính để bàn, điện thoại di động… nhà sản xuất, nhà nhập khẩu phải có trách nhiệm tái chế theo tỷ lệ và quy cách bắt buộc.

Dẫu biết rằng, rác thải điện tử không chỉ là vấn đề về môi trường mà còn đặt ra những thách thức lớn về sức khỏe, kinh tế và xã hội…Giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng. Tin rằng, cộng đồng doanh nghiệp đầu tư vào cơ sở hạ tầng tái chế, nâng cao nhận thức xã hội, cùng việc thực thi các chính sách quản lý hiệu quả là những bước đi cần thiết…

(Bài xuất bản số T12, đặc san Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông)

TS. Hồ Minh Sơn

Bài viết liên quan

Back to top button