Cần khung pháp lý về tài sản số tại thị trường Việt Nam
(HNTTO) – Việt Nam đang là một trong ba nước đứng đầu thế giới về giao dịch tiền số nhưng lại chưa có khung pháp lý cho loại hình đầu tư này, dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động giao dịch tài sản số. Theo đó, khung pháp lý vẫn chưa được chú trọng dẫn đến những tài sản ảo đang được giao dịch trên thị trường Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Giao dịch tài sản số trên thị trường Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ảnh minh họa
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ người sở hữu tài sản số cao nhất thế giới. Trader (nhà giao dịch) Việt Nam cũng rất thông minh và thu được lợi nhuận lớn từ tài sản số. Nhưng đó chỉ là những con số. Chúng ta cần có những đề xuất để tài sản số được luật pháp chấp thuận, từ đó mới có các sàn giao dịch tài sản số
Theo tìm hiểu của Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) phối hợp với Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) cho thấy, tổng giá trị tài sản số trong năm 2030 dự kiến sẽ lên tới 16.000 tỷ USD, chiếm 10% GDP toàn cầu. Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về giao dịch tiền số, chỉ sau Ấn Độ và Mỹ với gần 26 triệu người sở hữu tiền ảo (theo Crypto Crunch App).
Cụ thể, ngày 23/2/2024, Phó Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 194/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhằm đưa Việt Nam ra khỏi danh sách xám của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF). Tại quyết định này, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước đánh giá rủi ro về rửa tiền trong kinh doanh casino, trò chơi có thưởng và tài sản số, hoàn thành vào tháng 9/2024. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính được giao xây dựng khung pháp lý để cấm hoặc điều chỉnh tài sản số và các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản này, hoàn thành trong tháng 5/2025.
Mới đây, tại Tọa đàm “Chính sách thuế – tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp”, nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự phát triển và bùng nổ của công nghệ số nói chung và công nghiệp công nghệ số nói riêng là xu hướng tất yếu toàn cầu.
Công nghiệp công nghệ số đang ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí là nền tảng và là hạ tầng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Đồng thời, đóng vai trò dẫn dắt trong thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc gia số.
Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung cho rằng, có rất nhiều con số nói về tài sản số tại Việt Nam. Theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022 dòng tài sản số hay tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD.Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021 – 2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023 Việt Nam tụt 5 hạng, đứng thứ 7. Thái Lan và Singapore đã vươn lên đứng thứ 5 và 3.
Ông Phan Đức Trung, nhấn mạnh: “Tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực. Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực, chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng”.
Liên quan đến Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, qua theo dõi toạ đàm, Tiến sĩ Hồ Minh Sơn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC); Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) khẳng định đây là lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tài sản số. Ông Sơn, khẳng định: “Dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển, tuynhiên về mặt pháp lý dường như chúng ta chưa theo kịp, chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này. Vì lẻ đó, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên tại Điều 8 có quy định về tài sản số”.
Ông Hồ Minh Sơn, cũng cho rằng: “Cần có khung khổ pháp lý chính thức. Bởi, khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ. Từ đó, có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ. Nếu không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số, nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân. Do đó, cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Cần xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì, cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số. Các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan mới có các biện pháp, chính sách để hình thành khung pháp lý đồng bộ. Tài sản số có thể sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Để thừa nhận và quản lý nó như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan.
Trường hợp Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội thông qua, trong đó đưa ra được định nghĩa về tài sản số, các nội dung có liên quan, thì trong phạm vi và chức năng của mình, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế.
Theo TS Hồ Minh Sơn thì trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hoặc thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế…Cùng với đó, khi có Luật Thuế giá trị gia tăng để điều tiết, giao dịch các tài sản.
Bên cạnh những thuận lợi về chính sách mà Chính phủ đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp, còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực tài sản số…Điều này, không chỉ tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật, khi yếu tố pháp lý về tài sản số thì việc thu hút vốn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài cũng dễ dàng hơn.
(Bài xuất bản đặc san Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông số T9)
Hồ Vĩnh Chung